Nguyễn Hưng Quốc
Giải
Nobel văn chương năm nay - trị giá khoảng 1.30 triệu Mỹ kim - được trao
cho Alice Munro, nhà văn Canada. Ðiều đó vừa bất ngờ vừa không có gì
đáng... ngạc nhiên.Bất ngờ vì trước khi kết quả
được công bố, hầu như phần lớn những người quan tâm đến văn học trên thế
giới đều tiên đoán giải Nobel năm nay sẽ lọt vào tay hoặc là Haruki
Murakami, nhà văn Nhật, hoặc là Joyce Carol Oates, nhà văn Mỹ.
Cũng có một số người hy vọng Alice Munro sẽ thắng, nhưng số này khá ít ỏi.
Hơn nữa, bất ngờ còn vì hình như từ lâu người Canada đã mất hy vọng vào giải Nobel văn chương. Nhớ, năm ngoái, trên tờ Huffington Post, Peter Worthington, đồng sáng lập viên tờ Toronto Sun, đã bày tỏ sự tuyệt vọng của mình đối với giải Nobel văn chương. Ông cho biết Canada đã đoạt được nhiều giải Nobel về y khoa, vật lý, hóa học, tâm lý học và hòa bình nhưng chưa bao giờ nhận được giải Nobel nào về văn chương trong khi phần lớn các quốc gia nói tiếng Anh khác đều có
Cũng có một số người hy vọng Alice Munro sẽ thắng, nhưng số này khá ít ỏi.
Hơn nữa, bất ngờ còn vì hình như từ lâu người Canada đã mất hy vọng vào giải Nobel văn chương. Nhớ, năm ngoái, trên tờ Huffington Post, Peter Worthington, đồng sáng lập viên tờ Toronto Sun, đã bày tỏ sự tuyệt vọng của mình đối với giải Nobel văn chương. Ông cho biết Canada đã đoạt được nhiều giải Nobel về y khoa, vật lý, hóa học, tâm lý học và hòa bình nhưng chưa bao giờ nhận được giải Nobel nào về văn chương trong khi phần lớn các quốc gia nói tiếng Anh khác đều có
Mỹ: nhiều. Anh:
cũng nhiều. Ireland: cũng nhiều. Ngay cả Úc cũng có được một người:
Patrick White (1973). Trong khi đó, Canada: trắng tay. Mấy tháng trước
khi giải Nobel văn chương năm 2012 được công bố, đối diện với câu hỏi:
liệu lần này Canada có may mắn hơn, Worthington thẳng thắn trả lời:
Không. Nhất định là không.
Tuy nhiên, khi giải Nobel năm nay được trao cho Alice Munro, hầu như mọi người lại cho điều đó không có gì đáng ngạc nhiên.
Thứ
nhất, người ta đã biết những sự tiên đoán trước giải Nobel thường...
sai. Ví dụ, năm 2012, tiên đoán: Haruki Murakami; người đoạt giải: Mạc
Ngôn; năm 2011, tiên đoán: Adonis, người đoạt giải: Tomas Transtromer;
năm 2010, tiên đoán: Tomas Transtromer, người đoạt giải: Mario Vargas
Llosa; năm 2009, tiên đoán: Amos Oz, người đoạt giải: Herta Muller; năm
2008, tiên đoán: Claudio Magris và Adonis, người đoạt giải: Jean-Marie
Gustave Le Clézio; năm 2007, tiên đoán: Philip Roth, người đoạt giải:
Doris Lessing; năm 2005, tiên đoán: Adonis, người đoạt giải: Harold
Pinter; năm 2004, tiên đoán: Adonis, người đoạt giải: Elfriede Jelinek,
v.v... Trong hơn một thập niên vừa qua, hầu như chỉ có một lần duy nhất,
sự tiên đoán chính xác, đó là vào năm 2006, khi cả người được tiên đoán
và người đoạt giải là một: Orhan Pamuk, người Thổ Nhĩ Kỳ.
Thứ
hai, sau khi nghe giải Nobel văn chương năm nay được công bố, hầu như
mọi người đều đồng ý. Giới cầm bút đồng ý. Giới phê bình đồng ý. Ða số
độc giả cũng đồng ý. Hiếm khi nào sự đồng ý lại cao đến như vậy. Người
ta biết văn chương của Alice Munro ít có những cách tân đáng kể về
phương diện kỹ thuật, nhưng dù vậy, bà cũng vẫn được xem là một trong
những nhà văn lớn nhất của thời đại. Lớn về phương diện ngôn ngữ với một
phong cách diễn tả vừa giản dị vừa độc đáo. Lớn về phương diện tư
tưởng: qua những câu chuyện có vẻ bình thường, thậm chí tầm thường, của
các phụ nữ lao động sống ở miền quê - thường là vùng Southern Ontario,
Alice Munro lột tả những chuyển biến vừa tinh tế vừa phức tạp trong tâm
lý cũng như trong quan hệ giữa con người với nhau, từ đó, làm cho cuộc
sống hiện ra dưới một góc cạnh khác hẳn, đầy những bí ẩn và nghịch lý,
rất hiếm khi được nhận biết.
Sự đồng thuận trên, thật ra, không
có ý nghĩa gì về phương diện văn học hay mỹ học. Trong bài “Ba loại nhà
văn” viết sau giải Nobel văn chương năm 2012, nhà văn Phạm Thị Hoài có
một ý kiến rất sâu sắc và thú vị: “Tác gia văn chương, chung quy có ba
loại. Loại dành cho đồng nghiệp, tác gia của tác giả. Loại dành cho công
chúng, tác gia của độc giả. Và loại dành riêng cho sự tự mê hoặc của
những tác giả tự phong.” Loại thứ ba, nhiều như cỏ, không đáng bận tâm.
Nên chỉ còn hai loại. Loại thứ nhất, kiểu như James Joyce, Kafka,
Nabokov, Borges... là những tài năng đặc biệt, có những cách tân đặc
biệt, vô cùng hiếm hoi và không thể thay thế được: Không có họ, bản đồ
văn học thế giới sẽ khác hẳn. Loại thứ hai, đông hơn, từ Balzac đến
Dostoevsky, Sartre, George Orwell, Murakami, v.v... là những người có
tài, tuy nhiên tầm cỡ tài năng của họ thay đổi tùy theo “khí hậu và môi
trường văn hóa.” Theo Phạm Thị Hoài, ai trong số này được chọn lựa để
trao giải Nobel cũng đều “xứng đáng như nhau.”
Sự đồng ý hay
không đồng ý về người được nhận giải thưởng, do đó, gắn liền với các yếu
tố xã hội, văn hóa và tâm lý hơn là thuần túy nghệ thuật. Riêng trong
trường hợp của Alice Munro, có lẽ có hai lý do chính: Một, Alice Munro
viết tiếng Anh, một ngôn ngữ được xem là “quốc tế”, do đó, đã có một
lượng độc giả thật lớn, có lẽ lớn hơn rất nhiều so những nhà văn từng
đoạt giải Nobel trong mấy năm vừa qua (chỉ riêng tại Mỹ, số sách bà bán
được trước khi giải Nobel được công bố đã trên một triệu cuốn). Hai,
xuất phát từ tự ái của những người nói tiếng Anh, cả tác giả lẫn độc
giả: sau nhiều năm (!),giải Nobel văn chương lại lọt vào tay một người
cầm bút viết tiếng Anh.
Nói “nhiều năm,” nhưng thật ra, chỉ có
năm năm, từ năm 2008 đến 2012. Nhưng với người nói tiếng Anh, năm năm đã
là lâu. Nên lưu ý là từ năm 1901 đến 2012, trong số những người đoạt
giải Nobel, tính theo ngôn ngữ, tiếng Anh chiếm vị trí cao nhất, với 26
người. Tiếng Pháp và tiếng Ðức, cùng đứng hạng thứ hai, chỉ có một nửa:
mỗi ngôn ngữ có 13 người.
Tính một cách tỉ mỉ hơn, Pháp cao hơn
Ðức một chút: 13 người rưỡi. Rưỡi, vì Samuel Beckett, người đoạt giải
Nobel văn chương năm 1969, vừa viết bằng tiếng Anh vừa viết bằng tiếng
Pháp.
Dư luận không những đồng thuận về sự đúng đắn trong quyết
định trao giải Nobel văn chương cho Alice Munro mà còn đồng thuận hơn ở ý
nghĩa của việc trao giải lần này.
Thứ nhất, đó là giải Nobel văn
chương đầu tiên dành cho Canada (không kể Saul Bellow, giải Nobel văn
chương năm 1976, sinh tại Canada nhưng sang sống ở Mỹ từ năm lên 9, vào
quốc tịch Mỹ và được xem là nhà văn Mỹ). Nhiều người cho đó là một sự
công nhận cần thiết dù khá muộn màng: Canada có những cây bút tầm cỡ
quốc tế, như Margaret Atwood hay Michael Ondaatje (người gốc Sri Lanka),
từ lâu được xem là xứng đáng được giải Nobel.
Thứ hai, Alice
Munro là nhà văn nữ thứ 13 được trao giải Nobel về văn chương, sau Selma
Lagerlof, người Thụy Ðiển (1909), Grazia Deledda, người Ý (1926),
Sigrid Undset, người Na Uy (1928), Pearl S. Buck, người Mỹ (1938),
Gabriela Mistral, người Chile (1945), Nelly Sachs, người Thụy Ðiển
(1966), Nadine Gordimer, người Nam Phi (1991), Toni Morrison, người Mỹ
(1993), Wislawa Szymborska, người Ba Lan (1996), Elfriede Jelinek, người
Áo (2004), Doris Lessing, người Anh (2007), Herta Muller, người Romania
viết tiếng Ðức (2009).
Ngoài việc viết lách, hầu hết các nhà văn
nữ vừa kể đều có nghề nghiệp ổn định (phần lớn là dạy học; có người,
như Selma Lagerlof, dạy trung học; có người, như Pearl S. Buck, Gabriela
Mistral, Nadine Gordimer, và Toni Morrison, dạy đại học, hoặc là các
nhà hoạt động chính trị và xã hội, như Nadine Gordimer, Elfriede
Jelinek, Doris Lessing...), riêng Alice Munro thì chủ yếu là một người
nội trợ. Lập gia đình từ năm 20 tuổi, có con đầu lòng từ năm 21, thoạt
đầu, bà giúp chồng trong việc điều hành một tiệm sách, sau, phần lớn
thời gian dành cho việc nuôi con và chăm sóc nhà cửa. Bà viết văn những
lúc con cái đi học hoặc đi ngủ. Bàn viết của bà được đặt ở một góc phòng
ăn, cạnh bếp, nơi bà có thể chạy đến làm việc giữa hai bữa ăn.
Thứ
ba, quan trọng hơn, Alice Munro hầu như là người duy nhất chỉ chuyên về
truyện ngắn được trao giải Noel văn chương. 14 cuốn sách của bà là 14
tập truyện ngắn (cuốn Lives of Girls and Women, xuất bản lần đầu năm
1971, thỉnh thoảng được xem là cuốn tiểu thuyết, thật ra, là một chùm
truyện ngắn liên kết với nhau).
Theo lời tiết lộ của Munro, trong
một số cuộc phỏng vấn, không phải bà không muốn viết tiểu thuyết. Cũng
giống mọi người cầm bút khác, một trong những giấc mơ đầu tiên và lớn
nhất trong đời bà là viết tiểu thuyết. Nhưng cuối cùng bà lại viết
truyện ngắn. Chỉ viết truyện ngắn. Lý do chính là thời gian. Lúc thực sự
đi vào con đường sáng tác, bà có ba con nhỏ phải nuôi và một gia đình
phải chăm sóc. Thời ấy lại chưa có máy giặt, máy sấy: Công việc nội trợ
lại càng mất nhiều thì giờ. Bà chỉ có thể viết trong những quãng thời
gian ít ỏi giữa hai công việc. Trung bình bà thường mất khoảng bảy, tám
tháng để hoàn tất một truyện ngắn.
Dĩ nhiên, sự chọn lựa miễn
cưỡng ấy không có gì đáng tiếc. Ở thể loại ấy, bà được đánh giá là
Chekhov của Canada. Khi quyết định trao giải thưởng Nobel văn chương cho
Munro năm nay, Ban giám khảo cũng nhấn mạnh vào khía cạnh ấy khi tuyên
dương bà như một “bậc thầy của truyện ngắn đương đại.” Thật ngắn gọn.
Sự ngắn gọn ấy cho thấy hai đặc điểm quan trọng trong giải Nobel văn chương năm nay.
Thứ
nhất, người ta không chú ý nhiều đến nội dung. Trước, những lý do được
nêu lên thường tập trung vào hiện thực hay tư tưởng, vào ý nghĩa chính
trị, xã hội hoặc triết học (ví dụ, với Mạc Ngôn, năm 2012, sự kết hợp
giữa chủ nghĩa hiện thực và truyện dân gian cũng như lịch sử; với Tomas
Transtromer, bằng những hình ảnh cô đọng mở lối vào hiện thực; với Mario
Vargas Llosa, mô tả những cấu trúc quyền lực; với Doris Lessing, phản
ánh một nền văn minh bị phân hóa; với Orhan Pamuk, những sự va chạm giữa
các nền văn hóa, v.v...). Hậu quả là phần lớn những người được trao
giải đều là những người ít nhiều đều dấn thân hoặc, ít nhất, có lý tưởng
chính trị hoặc xã hội rõ rệt. Alice Munro là một ngoại lệ: Bà được xem
là tác giả ít có màu sắc chính trị nhất.
Thứ hai, về Alice Munro,
bản tin báo chí của Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển chỉ xoáy vào một điểm: nghệ
thuật; trong nghệ thuật, chỉ xoáy vào một thể loại: truyện ngắn; và ở
thể loại truyện ngắn, chỉ nêu lên một điểm: vị trí của Munro, một bậc
thầy. Hết.
Chính vì thế, một số nhà bình luận cho giải Nobel năm
nay không phải chỉ trao cho Alice Munro, cho Canada hay cho phụ nữ mà
còn là một giải thưởng lớn trao cho truyện ngắn, một thể loại dường như
bị hờ hững quá lâu, không chỉ bởi các nhà xuất bản và công chúng mà còn
bởi giới phê bình và những người có thẩm quyền đánh giá văn học trong
các giải thưởng lớn.
Tôi cho điều này rất có ý nghĩa đối với giới
cầm bút Việt Nam hiện nay. Một mặt, sở trường của hầu hết các nhà văn
của chúng ta dường như đều nằm ở truyện ngắn hơn là ở tiểu thuyết. Mặt
khác, giống như Alice Munro hồi trẻ, hầu như ai cũng ôm ấp giấc mơ viết
tiểu thuyết và xem truyện ngắn như những bài tập ngắn, với chúng, người
ta chưa thực sự là nhà văn một cách nghiêm túc.
Xin lưu ý: Trước
Alice Munro, trong thế kỷ 20, Jorge Luis Borges, người được xem là “bậc
thầy của những bậc thầy” cả đời chỉ viết truyện ngắn.
Nguyễn Hưng Quốc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét