Ngô Nhân Dụng
Các
“đồng chí anh em” bắt đầu tỏ thái độ đối nghịch với nhau. Lần đầu tiên
một thủ tướng Cộng Sản Việt Nam (viết tắt là Việt Cộng) dọa rằng sẽ dùng
đòn pháp lý để nói chuyện với Cộng Sản Trung Quốc (viết tắt, Trung
Cộng).
Chỉ mới nói thôi, chưa đưa đơn kiện, tức
là chưa làm gì cả; nhưng dám nói còn hơn không. Thêm vào đó, tờ tạp chí
trên mạng, tiếng nói của đảng Cộng Sản Việt Nam đã chỉ đích danh lãnh tụ
Trung Cộng tố cáo là theo chủ nghĩa Ðại Hán. Hai chữ này diễn tả một
truyền thống kéo dài hơn 2,000 năm, ít nhất kể từ thời Mã Viện. Tất
nhiên nói như vậy vẫn chỉ là người Việt nói cho người Việt nghe cho
sướng tai; giống như nói chuyện kiện cáo mà không dám đưa đơn kiện,
không đụng tới lông chân mấy anh chị Ðại Hán ở Trung Nam Hải. Một bước
đi xa hơn nữa là trên tờ báo lề phải còn đăng bài biện minh rằng bức
công hàm của Phạm Văn Ðồng ký năm 1958 đồng ý các quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa thuộc lãnh hải Trung Quốc là không có giá trị. Bài báo này có
vẻ nhắm đến dư luận quốc tế, trong đó có cả Trung Quốc; chứ không chỉ
nhắm người Việt nói với nhau. Nhưng lập luận của bài báo đó cũng không
có giá trị nào cả. Muốn chống lại chiến dịch xâm lấn Biển Ðông của Trung
Cộng, người Việt Nam phải dùng biện pháp khác, triệt để hơn.
Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!” Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền! Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước.
Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới.
Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại.
Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa” và “Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa” và “Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm.
Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958!
Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không?
Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng.
Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị.
Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan.” Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước,
Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Ðức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng.” Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung.” Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan.” Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958.
Chế độ cộng sản ở Hà Nội hiện nay là thừa kế chính thức của chính phủ Phạm Văn Ðồng. Cho nên, khi họ xác định rằng bức công hàm do ông Phạm Văn Ðồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 là vô giá trị, đó là một bước thoái lui có ý nghĩa. Bởi vì đây là lần đầu tiên đảng Cộng Sản Việt Nam xác định chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có giá trị pháp lý. Từ năm 1954, Việt Cộng không bao giờ công nhận điều đó. Họ gọi chính quyền miền Nam là “ngụy,” nghĩa là “giặc.” Bây giờ họ chính thức thừa nhận chính quyền Sài Gòn làm chủ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho nên, họ biện minh, ông Phạm Văn Ðồng, thủ tướng chính phủ Hà Nội, không có quyền hành nào trên các quần đảo đó. Vì vậy, ông Ðồng không thể đem trao cho Trung Cộng, dù ông ta muốn cống hiến. Nói cách khác, Việt Cộng bây giờ đồng ý rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ hợp pháp; công nhận chế độ đó làm chủ một nửa nước Việt Nam. Thật đáng tiếc, hồi đó họ lại chủ trương đánh chiếm miền Nam để cùng “tiến lên chủ nghĩa xã hội!” Họ lờ đi không nói rõ ông Ðồng có ý nhường các đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng hay không, dù ông ta không có quyền! Tội nghiệp ông Ðồng, ông chỉ ký tên vào bức thư đã được tất cả Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, vì thế mà riêng ông mang tội bán nước.
Nhưng dùng lối phủ nhận này không phải là thứ lý luận đứng vững trong cuộc đối đầu với Trung Cộng, cũng như trong ý định biện minh cùng dư luận thế giới.
Thứ nhất, bởi vì sau khi nước ta bị chia đôi năm 1954, chính quyền cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam trong thời gian đó đều tự coi mình nắm chủ quyền trên toàn thể nước Việt Nam. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, từ thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đều khẳng định lãnh thổ Việt Nam kéo dài từ Nam Quan đến Cà Mau; mà Hiến Pháp miền Bắc cũng vậy. Khi chính phủ Phạm Văn Ðồng giao thiệp với Trung Cộng, họ nhân danh cả nước Việt Nam, chứ không riêng gì miền Bắc vĩ tuyến 17; mà Bắc Kinh cũng công nhận điều đó. Ông Ðồng ký bức công hàm theo nội dung này. Bây giờ nói đi nói lại, rằng ông Ðồng chỉ nhân danh một nửa nước Việt Nam thôi; Bắc Kinh sẽ bác bỏ luận điệu đó một cách dễ dàng, rất khó cãi lại.
Tập Cận Bình và tập đoàn thống trị ở Ðông Nam Hải còn có thể nêu ra rất nhiều bằng cớ chứng tỏ ông Ðồng và tất cả đảng Cộng Sản Việt Nam đã công nhận Trung Cộng làm chủ Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm Phạm Văn Ðồng viết cho Chu Ân Lai nói rằng chính phủ của ông “ghi nhận và tán thành” bản tuyên bố của Trung Cộng ngày 4 tháng 9 năm 1958 về lãnh hải Trung Quốc. Trong văn bản đó, Trung Cộng nói rõ ràng Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, ông Ðồng và cháu chắt ông ta không thể chối cãi rằng họ hiểu lầm được. Một bằng chứng hiển nhiên khác mà Trung Cộng có thể nêu ra là các sách giáo khoa vẫn được sử dụng ở miền Bắc. Năm 1964, cuốn sách “Tập Bản Ðồ Việt Nam” do Cục Ðo Ðạc và Bản Ðồ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phát hành đã dùng địa danh “Tây Sa” và “Nam Sa” theo cách gọi của Trung Cộng chứ không gọi là “Hoàng Sa” và “Trường Sa” theo cách của người Việt Nam. Với bằng chứng đó, khó cãi với họ lắm.
Hơn thế nữa, năm 1974 khi Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa, chính quyền Hà Nội không hề lên tiếng phản đối. Khi phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa thưa kiện Trung Cộng về vụ này, cả chính phủ miền Bắc lẫn đám bù nhìn của họ ở miền Nam đều không đồng ý. Tại hội nghị La Celle Saint Cloud, được mời cùng đứng tên phản đối hành động xâm lăng Hoàng Sa, họ cũng từ chối. Bây giờ làm sao nói ngược lại được? Gần đây, phóng viên Xuân Hồng của đài BBC có phỏng vấn bà Bảy Vân, vợ của cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Bà Bảy Vân xác nhận: “Phạm Văn Ðồng có ký văn bản. Ngụy nó đóng ở ngoài đó (Hoàng Sa). Cho nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” Người Tàu họ có thể đọc được tiếng Việt, sẽ vin vào các bằng cớ đó mà xác định rằng Bắc Việt đã đồng ý trao Hoàng Sa cho Trung Cộng từ năm 1958!
Tất cả luận điệu của đảng Cộng Sản Việt Nam chối bỏ bức công hàm của Phạm Văn Ðồng trở thành vô giá trị khi ra trước công luận thế giới. Vậy chúng ta có cách nào xóa bỏ mối nhục bán nước đó hay không?
Có một cách. Là toàn thể dân chúng Việt Nam, từ Bắc chí Nam, bây giờ cùng nhau khẳng định rằng chính phủ Phạm Văn Ðồng là một chính quyền vô giá trị, không bao giờ làm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, đó là một chính quyền ngụy tạo, mạo nhận, không chính đáng.
Người Việt Nam có thể làm công việc đó ngay bây giờ, bằng một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng sẽ xóa bỏ tất cả cơ cấu quyền hành từ thời Phạm Văn Ðồng tới ngày nay; thay thế bằng một chính thể mới, do người dân Việt Nam tự do bỏ phiếu lựa chọn.
Ðảng Cộng Sản Việt Nam có thể làm công việc đó. Giống như đảng Cộng Sản Bulgaria đã làm năm 1989. Một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Bộ Chính Trị Cộng Sản Bulgaria đã họp nhau, tự xóa bỏ độc quyền lãnh đạo trong Hiến Pháp và xóa luôn tên đảng cộng sản. Họ tổ chức bầu cử, viết một Hiến Pháp mới, và chính quyền mới (cũng do các người trong đảng cộng sản cũ cầm đầu) tuyên bố tất cả các hiệp ước với Liên Xô đều vô giá trị.
Trên thế giới, nhiều nước đã xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với nước ngoài bằng cách đó. Chính quyền Phạm Văn Ðồng chịu công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc, đó là một thứ thỏa hiệp bất bình đẳng. Trung Cộng đã đưa ra 16 chữ vàng: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan.” Ðảng Cộng Sản Việt Nam diễn tả thành ra 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.” Bây giờ là lúc dân Việt Nam chấm dứt mối quan hệ bất bình đẳng này, do áp lực của Trung Cộng qua chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam có quyền xóa bỏ một chế độ sai lầm, xây dựng lại đất nước,
Trả lời cuộc phỏng vấn của nhật báo Người Việt, Ðức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nói rằng vụ giàn khoan 981 “là một sự kiện rất đau thương, nhưng rất có thể đó cũng là một cơ hội đặc biệt tạo ra cái đổi mới, cái khởi đầu nào đó cho Việt Nam. Nhiều người hy vọng rằng, biết đâu nhờ biến cố đặc biệt đó mà Việt Nam lấy lại cái thế chủ quyền độc lập của mình, thoát khỏi vòng tay Trung Cộng.” Người Việt trong nước hiện đang nôn nóng đòi thi hành một chính sách đối ngoại “Thoát Trung.” Muốn thoát Trung, phải thoát Cộng. Không chấp nhận “lý tưởng tương thông” thì mới thoát được cái gọng kìm “vận mệnh tương quan.” Dân Việt phải tự quyết định, tự mình làm một “cái khởi đầu nào đó” cho nước Việt Nam. Ðó là cách tốt nhất để xóa mối nhục bán nước năm 1958.
Ngô Nhân Dụng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét