Ông Phengdy Seng, 45 tuổi, cứ tối đến là khom mình xuống những lề
đường đầy rác bẩn để săn chuột. Đồ nghề của ông gồm chiếc đèn soi đeo
trước cái trán đầy nếp nhăn và một cái nỏ tự chế lăm lăm trên tay chĩa
vào bất cứ cống rãnh nào.
Phập! Lúc mũi tên của ông đâm vào cổ
của một con chuột cống to và nặng cỡ 1kg, tiếng kêu của nó nghe vang
vọng trong không gian yên tĩnh của một buổi tối nóng nực. Nếu con mồi
vẫn còn sống và lăn lộn với mũi tên, người đàn ông Khmer này liền lấy
giày đập vào đầu nó thêm mấy cái cho chết hẳn rồi bỏ vào ba lô. Một câu
chuyện bình thường như cơm bữa: những con chuột cống to, lông rậm “chết
tươi” như thế đã sẵn sàng đem bán.
Đại lý “thịt vàng”
Gần cầu Steng Meanchey, ngay phía sau
bãi rác trung tâm của thành phố Phnom Penh là một ngôi nhà bên ngoài
trông khá bình thường giống như bao ngôi nhà bằng gỗ khác nằm gần đó.
Thế nhưng khi nhìn vào 3 chiếc thùng đá đặt sau vườn mới biết đó lại là
một “trường chuột” chính hiệu.
Khi tôi có mặt ở “đại lý chuột” chính hiệu Phnom Penh ấy, thì nhìn thấy “Cha mập” – biệt danh của người chủ – đang ngồi trên ghế gỗ hút thuốc, vội vàng đứng lên gói một thùng hàng lớn đến 40kg để gửi qua tỉnh Banteay Meanchey nằm sát biên giới Thái. Ở chỗ của “Cha mập”, chuột sau khi cân và lột da mà chưa cắt đầu thì có giá 3 ngàn riel/kg (mua vào) và còn giá bán là 5-6 ngàn riel/kg. Ngoài thị trường, chuột cống và chuột đồng có giá bán như nhau và chỉ có một số ít “chuyên gia” về chuột mới có thể phân biệt được nguồn gốc của loại “thịt vàng” này – theo như cách gọi của dân trong giới cũng như lời của Chea So, con trai của “Cha mập” cho biết.
Khi tôi có mặt ở “đại lý chuột” chính hiệu Phnom Penh ấy, thì nhìn thấy “Cha mập” – biệt danh của người chủ – đang ngồi trên ghế gỗ hút thuốc, vội vàng đứng lên gói một thùng hàng lớn đến 40kg để gửi qua tỉnh Banteay Meanchey nằm sát biên giới Thái. Ở chỗ của “Cha mập”, chuột sau khi cân và lột da mà chưa cắt đầu thì có giá 3 ngàn riel/kg (mua vào) và còn giá bán là 5-6 ngàn riel/kg. Ngoài thị trường, chuột cống và chuột đồng có giá bán như nhau và chỉ có một số ít “chuyên gia” về chuột mới có thể phân biệt được nguồn gốc của loại “thịt vàng” này – theo như cách gọi của dân trong giới cũng như lời của Chea So, con trai của “Cha mập” cho biết.
Hằng ngày vào lúc hừng đông tại thành
phố hai triệu dân này, Phengdy Seng và những tay săn chuột khác lại tập
trung ở “đại lý” chuột để kể nhau nghe những gì mình đã săn được ngoài
đường tối qua. Mười mấy người theo nhau vào trong ngôi nhà ấy để giao
hàng, mang theo những túi hay balô cũ nhồi nhét đầy “chiến lợi phẩm”.
Theo sự quan sát của PV —cả buổi sáng có mặt ở “đại lý chuột”—26 dân săn
chuột đều lên để bán hàng.
Nghề này đang thu hút khá đông những
người nghèo khó ở đủ các độ tuổi của Phnom Penh. Như hai anh em chưa đầy
mười tuổi, đã bắt được 1,2kg chuột trong xóm mình đêm qua để kiếm tiền
trả học phí. Hay “ma mới” Phengdy, thường bắt được 6-7kg chuột mỗi ngày
(khoảng 24 con) để được có 4 đô la bù đắp vào những giờ vất vả do phải
chịu đựng chuột cắn. Còn ông Saphaea là “sư phụ” của cả nhóm, đêm nào
cũng bắt được từ 20kg trở lên (khoảng 50 con). Với giá bán từ 3 ngàn
riel/kg, “sư phụ chuột” này đã kiếm được 450 đô la mỗi tháng – còn cao
hơn cả lương cảnh sát ở đất nước đang phát triển này.
Sau khi cân chuột xong, một gã thanh
niên cơ bắp, vẻ mặt gian xảo – liền bỏ thịt vào một cái thùng xốp không
ướp đá. Mùi hôi thối của thịt bốc ra nồng nặc. Hàng ngàn con ruồi bu đen
kịt quanh chiếc container có chứa bên trong bao nhiêu là thùng xốp đựng
thịt chuột, thứ thịt nhiễm độc đang chuẩn bị mang đi chế biến.
Xâm nhập đường dây nơi biên giới
Buổi trưa, tôi thấy có một chiếc xe
trông khả nghi đến nhà đại lý để nhận và giao thịt tới thành phố Poipet
thuộc tỉnh Banteay Meanchey để làm… bò viên. Tôi được biết chuyện rợn
người này từ lời kể của anh Seapchey Som, một lái buôn đường dài theo xe
từ Phnom Penh thường xuyên đi Poi Pet. Anh nói: “Trên quãng đường gần
400km này, tụi tôi rất dễ bị công an kiểm tra để phải “cúng” thường từ
50 -100 đôla tùy theo số lượng”.
Phần lớn số thịt này sẽ đem bán ở Thái
Lan với mác “chuột đồng”. Nhưng chính tay Som khi đi mua thịt đã mang
nó đến xưởng làm bò viên ở 2 cơ sở: một là ở biên giới Thái còn một nữa ở
trong khu Steung Meanchey. Chỉ có mấy cơ sở thủ công nhỏ tại nhà thì
mới làm thịt chuột, còn các công ty lớn thì không bao giờ. Nguy cơ bị
công an bắt rất cao, nên ít ai dám đánh liều tiền bạc của mình vào đầu
tư máy móc.
Một phần số chuột cống bẩn này sẽ gửi
qua cửa khẩu Khánh Bình, xã Khánh Bình, huyện An Phú, An Giang để đem
bán lậu cho người Việt Nam.
Ở Campuchia, sát biên giới Khánh Bình,
cơ quan chức năng nhìn chung vẫn còn hoạt động rất lỏng lẻo. Nhiều hàng
hóa chỉ được xử lý hay kiểm dịch rất vội vã và tắc trách. Những ai
trông giống người bản địa qua lại hai bên đều không bị khám xét. Chiếc
xe nào có biển số quen đều có thể chạy tự do qua cổng với những binh sĩ
biên phòng Khmer đứng nhìn thờ ơ. Thật không may cho người tiêu dùng
Việt Nam, chính tình tình trạng lỏng lẻo này đã tạo điều kiện cho các
đường dây mua bán thịt chuột hoạt động.
Lộc (anh xin được đổi tên), một tiểu
thương Việt Nam quen mua bán chuột giữa Phnom Penh và cửa khẩu Khánh
Bình giải thích: “Tôi mua chuột với giá 4-5 riel rồi bán lại với giá 6-7
riel, tùy theo sức mua của thị trường vào ngày hôm đó. Chuột đồng rất
có giá vào mùa khô và khi qua chế biến rồi thì chuột đồng và chuột cống
chỉ là một”.
Đối với dân buôn bán người Việt,
chuyện làm thịt giả là đi quá giới hạn luật pháp và cả sức tưởng tượng.
Nhiều cửa hàng làm giò chả, từng đồng ý làm hàng của mình từ tôm hoặc cá
cũ, nay nếu làm giả từ… thịt chuột thì thật quá “nghiêm trọng”. “Người
ta sợ Sở Y tế phát hiện ra thì sẽ bị phạt hoặc bị bắt” – Anh Nguyễn Vi
Hưng, một cò xe ôm làm ăn giữa hai bên biên giới cho biết.
Thế là để làm “bò đểu xuất khẩu”,
những nhà cung cấp chuột sẽ tìm đến một số cơ sở nhỏ ít vốn đầu tư,
không thu hút sự chú ý của các cơ quan kiểm tra, nằm ở ngoại ô Phnom
Penh. Ngay ở tầng hầm và sân sau của những trung tâm mua bán lớn ở Phnom
Penh, là một nhóm những cơ sở nhỏ, bất hợp pháp đang đánh cược số phận
của mình vào nguy cơ bị phạt tiền và thậm chí bị bỏ tù để chế biến những
viên thịt chuột cống nhiễm bẩn thành những miếng bò viên được đóng gói
cẩn thận. Không quan tâm đến phúc lợi cộng đồng hay người tiêu dùng có
thể bị mắc bệnh. Lợi nhuận đã làm mờ mắt tất cả những con người này khi
họ tham gia vào cả một ngành công nghiệp sản xuất “bò đểu”.
Cơ sở “bò đểu” ở Phnom Penh
Nằm sâu trong một con hẻm vắng vẻ ở
Steung Meanchey, phía sau đường Choam Chao, là một nhà kho nhỏ chỉ rộng
40m². Sau cánh cửa nhôm có 5 người đàn bà lớn tuổi, tóc đều bạc, ngồi
dưới đất. Sự im lặng bao trùm buổi chiều ngột ngạt, chỉ có tiếng kêu
lách cách của lưỡi dao bằng kim loại, tiếng bằm thịt, tiếng nước sôi và
tiếng quạt trần đều đều. “Bò viên” từ nơi đây xuất ra không hề thơm tự
nhiên hoặc có nhiều gia vị như bò viên thật, bởi nguyên liệu chính là
thịt chuột cống.
Trong 2 cái thùng xốp dơ bẩn là hàng
trăm thớ thịt chuột được xếp thành lớp, hôi nồng nặc, da đã lột, đầu
cũng đã cắt ra, chỉ còn chiếc đuôi dài khoảng 15cm thì vẫn gắn liền với
tấm thân thối rữa. Phần đầu tiên trong công đoạn chế biến: màu nhân tạo
sẽ được bỏ vào trong thùng thịt để có “màu bò tự nhiên”. Hai người đàn
bà ngồi ghế đẩu sẽ cho từng con vào một cái máy nghiền cũ kỹ. Ở đầu bên
kia “ói” ra một thứ thịt vàng vàng, vẫn cứ hôi thối. Sau khi tất cả bị
ném xuống cái sàn nhà kho dơ bẩn, quy trình chế biến đổi từ “chuột cống
thành phố” thành “bò đểu” bắt đầu.
Sau khi xay hết thịt, một cô gái người
Khmer sẽ bỏ nước mắm, bột thịt bò, bột tiêu, bột nêm vào thịt trộn đều
cho đến lúc thịt quánh lại. Khi đã được “vị thịt tự nhiên”, những thợ
làm thịt Khmer đó sẽ vô tư bọc thêm một lớp bột thịt bò bên ngoài, tức
là bao miếng thịt chuột cống vào trong một lớp bột dày màu vàng. Sau khi
được phủ bột gia vị và màu nhân tạo, thịt chuột cống bây giờ trông
giống như thịt bò đàng hoàng, và trông không khác gì bò bằm thứ thiệt.
Trong góc kho, đứng uể oải bên một nồi
đun nước khổng lồ là một người đàn bà Khmer khoảng 60 tuổi, một tay cầm
xẻng gỗ, một tay cho thịt đã quết vào nồi để luộc cho đến chín. Khi
thịt chín đều, bà lấy “chuột viên” ra, bỏ vào một tô thép, chờ xe tải
đến chở đi giao hàng qua biên giới Việt Nam. Hàng sẽ được cân tại kho
theo từng bịch nhựa loại 15, 25,30kg không nhãn mác, để khi qua biên
giới, sẽ chỉ còn là những túi nhỏ từ 3kg trở lên.
Theo Một thế giới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét