Tracy N.
Giáng
Sinh đã đến thật gần. Đây là lúc để mọi người cùng nhau điểm lại truyền
thống, ý nghĩa, và phong tục liên quan đến một mùa tuyệt vời nhất trong
năm này.
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noël,
Christmas hay X’mas. Từ tiếng Pháp, Noël là viết tắt của từ gốc
Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Truyền thống đón
Noël và các tập tục xung quanh nó ra đời từ rất xưa: thiệp ra đời ở
Anh, tem ra đời ở Đan Mạch, bánh Buche ở Pháp và cây thông Noël xuất xứ
từ một lễ hội của người Đức vào thời kỳ Trung Đại.
Nguyên thủy, Lễ Giáng sinh là của những người theo đạo Kitô giáo,
nhằm kỷ niệm ngày sinh của người lãnh đạo tôn giáo mình, người mà họ cho
là Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng dần dần, theo thời gian và qua
các lễ hội của phương Tây, người ta tổ chức lễ Giáng sinh ngày càng
linh đình. Đến bây giờ, lễ Giáng sinh được xem là một ngày lễ quốc tế,
với ông già Noël, cây Giáng sinh và cây thông Noël.
Một số nước mừng ngày lễ này vào ngày 25 tháng 12, một số nước lại
tổ chức vào tối ngày 24 tháng 12. Theo Công giáo Roma, lễ chính thức là
ngày 25 tháng 12 còn gọi là “Lễ chính ngày”, còn lễ đêm 24 tháng 12 gọi
là “Lễ vọng”.
Ông già Noël
Trẻ con Anh, Mỹ gọi Ông già Noël là Father Christmas, Santa Claus
hay Saint Nick, đó chẳng qua là một dạng của chữ Saint Nicholas. Những
người Hà Lan sống ở New York đã du nhập Ông Già Noël vào đất Mỹ. Họ gọi
Thánh Nicholas là “Sankt Klaus ” và cuối cùng là “Santa Claus”.
Vào ngày 6 tháng 12 hàng năm tại miền bắc và miền đông nước Pháp
cũng như nhiều nước Âu Châu khác đều tiến hành buổi lễ thánh Nicolas, vị
quan thầy bảo hộ cho trẻ em.
Người ta kể lại rằng Thánh Nicolas khởi nguồn từ Nicolas de Myre
hay cũng được gọi bằng tên Nicolas de Bari. Sinh ra tại Patara trong
vùng Tiểu Á vào khoảng năm 250 và 270 sau Thiên Chúa giáng sinh và mất
vào ngày 6 tháng 12 khoảng năm 345 hoặc năm 352 trong một thành phố hải
cảng tại Myre trong vùng Tiểu Á. Ông là một vị Giám mục tại Myre vào thế
kỷ thứ IV, và là một trong những vị thánh rất được quần chúng ái mộ tại
Hy Lạp và Giáo hội La Tinh.
Cuộc đời và hành động của ông bao trùm đầy những huyền thoại. Thánh
Nicholas là người bảo trợ cho các thuỷ thủ đảo Sicily, nước Hy Lạp,
nước Nga và tất nhiên Thánh cũng là người bảo trợ của trẻ em.
Thánh Nicolas trong y phục của một vị giám mục thường đi đôi với
cha Fouettard. Ông này mặc y phục đen có nhiệm vụ đánh đòn những đứa trẻ
cứng đầu khó bảo.
Lễ thánh Nicolas là một dịp để trẻ con được phát quà 3 tuần lễ
trước khi ông già Noël từ ống khói xuống. Trong đêm Thánh Nicolas đến,
trước khi lên giường ngủ trẻ con để đôi giầy của chúng trước lò sưởi.
Chúng cũng đặt cạnh đôi giầy một củ cà rốt, đồ ngọt cho con lừa của
thánh Nicolas, và một ly rượu để vị thánh sưởi ấm.
Từ thế kỷ thứ XII, người ta kể rằng thánh Nicolas, hoá trang, đi từ
nhà này sang nhà khác trong những đêm mùng 5 và mùng 6 tháng 12 để hỏi
những đứa bé xem chúng có ngoan ngoãn hay không. Những đứa trẻ ngoan
được ông cho quà, kẹo bánh còn những đứa bé ngỗ nghịch khó dạy thì sẽ bị
phạt bởi cha Fouettard, người đi cạnh ông.
Người ta tìm thấy ở sự thể hiện của ông già Noël tất cả những gì đã
tạo nên biểu tượng của nhân vật Thánh Nicolas: một bộ râu dài trắng
xoá, chiếc mũ giám mục trở thành chiếc mũ trùm đầu bằng lông, một chiếc
áo choàng đỏ.
Ông già Noël di
chuyển bằng một chiếc xe trượt tuyết kéo bởi những con tuần lộc, ông
thánh Nicolas di chuyển trên lưng một con lừa. Cũng bởi lý do này mà tại
một số vùng của nước Pháp, trẻ em thường đặt dưới gốc cây sapin Noël
một ly rượu cho ông già Noël và một củ cà rốt cho con lừa của ông. Đề
cập đến tên gọi thì tại vùng Savoie ông già Noël được gọi là ”Chalande”,
vùng Bourgogne và trong vùng Niverne được gọi là Père Janvier (cha
tháng Giêng), “Olentzaro ở vùng Pays Basque (miền Nam nước Pháp sát biên
giới với nước Tây Ban Nha) hay tại vùng Normandie (Bắc nước Pháp) được
gọi là “Barbassionné”.
Vào thế kỉ thứ 16, ở Hà Lan trẻ em thường đặt những chiếc giầy gỗ
của mình bên cạnh lò sưởi với hy vọng là chúng sẽ được thánh Nicholas
thết đãi no nê. Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas thành Sint
Nicholaas, sau đó nói chệch thành Sinterklaas và cuối cùng được những
người theo giáo phái Anh đọc thành Santa Claus.
Thánh Nicola được ‘nhập cảng’ vào Hoa Kỳ vào thế kỷ thứ 17 bởi
những người di dân Đức hay Hà Lan. Tại đây Thánh Nicolas đã được ‘thương
mại hoá’ một cách tuyệt vời bởi người Mỹ như hiện nay chúng ta biết sau
những ‘biến hoá’ về y phục và ‘văn hoá’ để trở thành ông già Noël vồn
vã, dễ thương hơn, và sau đó được người Hoa Kỳ ‘tái xuất cảng’ trở lại
Âu Châu.
Năm 1821 một mục sư Mỹ, Clement Clarke Moore viết một chuyện kể về
Noël cho trẻ em trong đó một nhân vật đáng yêu xuất hiện, ông già Noël,
trên chiếc xe trượt tuyết kéo bởi 8 con tuần lộc. Vị mục sư này đã tạo
cho ông già Noël vẻ mũm mĩm, vui cười. Ông cũng thay chiếc mũ giám mục
của Thánh Nicolas bằng chiếc mũ chùm đầu, chiếc gậy quyền giám mục bằng
kẹo đại mạch. Chú lừa được thay bằng 8 con tuần lộc năng động.
Ông
già Noël rất vui nhộn, béo tốt tượng trưng cho lòng đại lượng và các
loại thức ăn bổ dưỡng. Ông luôn mặc quần áo đỏ tượng trưng cho sự nồng
nhiệt và chân thành.
Tặng quà
Tặng quà là một tục lệ rất quan trọng của lễ Giáng Sinh. Tập tục
này dường như bắt nguồn từ thói quen của người La Mã xưa hay tặng quà
vào những lễ hội mùa đông hay Tết dương lịch. Theo truyền thuyết Kinh
Thánh, sau khi Chúa Hài Đồng ra đời được 12 ngày thì Ba Vua mang lễ vật
đến dâng nên ngày nay, ở Ý, Tây Ban Nha và nhiều nước khác, 12 ngày sau
đêm Giáng Sinh trẻ em mới được tặng quà.
Khi Chúa Giê-su
cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba vị vua
phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình với Chúa. Họ mang
đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và chất nhựa thơm. Vàng
tượng trưng cho vương quốc của ngài, trầm hương tượng trưng cho linh hồn
của ngài và chất nhựa thơm biểu hiện hình ảnh ngài bị đóng đinh trên
cây thánh giá.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có
tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính
với Chúa Hài Đồng. Những người chăn cừu tặng ngài hoa quả và những món
đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Đêm Giáng Sinh, ông già Noël sẽ là người đi phát quà. Trên vai ông
bao giờ cũng có một cái bị khổng lồ dựng đầy đồ chơi và quà bánh cho
thiếu nhi. Khi bọn trẻ đã ngủ, ông sẽ tụt ống khói vào nhà bỏ quà vào
những chiếc vớ chúng treo sẵn ở đầu giường kèm theo lời chúc Giáng Sinh
vui tươi.
Ký hiệu X’MAS
Từ viết tắt này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp
Xristos có nghĩa là Chúa Jesus. Cho đến thế kỷ thứ XVI, những người châu
Âu bắt đầu dùng chữ cái đầu tiên của tên Đức Chúa là “X” để viết tắt
cho từ Christ trong Christmas.
Cây thông Noël
Việc sử dụng cây thông như vật trang trí cho Lễ Giáng Sinh là một phong tục truyền thống.
Truyền thuyết kể
rằng vào một đêm Noël, thánh Bonifacia đang đi trong rừng thì bắt gặp
cảnh tượng một lễ hiến sinh. Hết sức phẫn nộ, thánh giật lấy một cái rìu
của những người ngoại đạo và bổ mạnh vào thân một cây sồi thiêng. Sau
nhát chặt, một cơn cuồng phong đã quật đổ cây sồi. Run sợ trước biểu
hiện sự trừng phạt của Chúa, những người ngoại đạo đã xin gia nhập đạo
Cơ đốc ngay tại khu rừng này.
Những người mới gia nhập Cơ đốc giáo nhận thấy một thông nhỏ mọc
lên từ gốc của cây sồi bị chặt. Theo phong tục của người ngoại đạo, họ
thường dùng thông xanh làm biểu tượng cho sự sống vĩnh hằng và lúc này
họ quyết định dùng nó như là biểu tượng của Chúa Giê-su muôn đời. Trải
qua nhiều năm thì những cây thông xanh mới được trang trí như ngày nay
nhưng chúng đã trở thành một biểu tượng không thể nào thay thế.
Martin Luther được biết đến như người đầu tiên trang hoàng một
thông xanh dành cho lễ Giáng Sinh. Ông mang một cây vào trong nhà và và
gắn lên đó những cây nến và vật trang trí được làm bằng hoa quả và những
đồ dùng trong nhà lên trên đó. Ông nói rằng ánh sáng nhắc mọi người nhớ
đến Chúa Giê-su là ánh sáng của thế giới và những vật trang trí trên
cây biểu hiện cho những món quà của Chúa nhân từ và độ lượng.
Sau Martin Luther những người Ðức cũng bắt đầu trang trí cây Noël
và phong tục này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Khi ngày lễ
Giáng sinh trở nên phổ biến hơn thì việc trang trí cây thông Noël cũng
vậy, ở Mỹ, truyền thống trang trí cho cây Noël được bắt đầu ở thành
phố Bê-lem, tiểu bang Pennysylvania vào năm 1747 khi một giáo xứ quyết
định làm theo phong tục của người Ðức và lúc đó cây Noël được trang trí
cho trẻ con.
Trong tiếng Anh, những bài hát vui đêm Giáng Sinh được gọi là
Carol, tiếng Pháp là Noel, tiếng Ý là Pastorelles và tiếng Đức là
Kristilieder. Chúng bắt nguồn có lẽ từ các nhà thờ xưa, nơi thường diễn
những vở kịch nhớ về sự ra đời của Chúa và có kèm theo những bài hát
vui.
Ngày nay, những bài thánh ca Giáng Sinh đã được sáng tác thêm rất
nhiều, một số ngợi ca Thiên Chúa, một số khác có nội dung mừng lễ hội.
Một trong những bài thánh ca nổi tiếng và được dịch ra nhiều ngôn ngữ
nhất trên thế giới là “Silent Night, Holy Night”.
Cây trạng nguyên (Poinsettias)
Quê hương của cây Poinsettias là ở Mexico.
Vào thế kỉ 18,
người Mexico coi cây trạng nguyên là biểu tượng của ngôi sao ở Bethelem.
Theo truyền thuyết cho rằng có một bé trai không có quà dâng lên Chúa
Hài Đồng nên em đã mang đến máng cỏ một chùm lá cây. Các bạn em cười chế
nhạo em, nhưng khi em đặt những nhánh lá dưới chân Chúa Hài Đồng thì
những cành lá đó biến thành những bông hoa đỏ rực rỡ rất đẹp. Cây trạng
nguyên được đặt theo tên của Joel Poinsett đại sứ đầu tiên của Mỹ ở
Mexico người đã có công mang loại cây này về nước Mỹ vào năm 1882.
Các món ăn trong đêm Giáng sinh
Gà Tây quay
Vào thế kỷ thứ XVI, nhà thám hiểm Sebastian Cabot đem gà Tây về
nước Anh. Mặc dù khí hậu lạnh không thích hợp với loại gia cầm này,
nhưng gà Tây quay vẫn trở thành món ăn phổ biến của người Anh mỗi dịp
Giáng sinh. Gà Tây quay nổi tiếng đến nỗi năm 1843, nhà văn Anh Charles
Dickens đã đưa nó vào tác phẩm kinh điển A Christmas Carol của mình. Món
ăn này lan truyền sang Úc từ năm1788.
Bánh Pudding
Khoảng thế kỷ thứ XVI, các loại rau và thịt mất dần. Đến thế kỷ thứ
XIX thì thành phần và vị của nó rất gần với bánh pudding ngày nay.
Người ta còn cho vào bánh vài hạt đậu hoặc đồng xu và tin rằng người ăn
phải phần bánh này, sẽ gặp may mắn cả năm. Những bữa tiệc đón Giáng
sinh về không thể thiếu chiếc bánh pudding thơm lừng, béo ngậy. Tuy
nhiên, bánh pudding ngày nay khác xa chiếc bánh ngày xưa. Vào thế kỷ XV,
bánh được làm từ mận, rượu vang, thịt bê thái nhỏ, vụn bánh mỳ, thảo
dược, hành rau, trái cây khô và gia vị.
Bánh Buche Noël
Tổ tiên người phương Tây thường nhóm củi trong ống khói nhà, họ tin
rằng lửa càng kêu lách cách thì các thần dữ sẽ tránh xa. Ngày nay, tập
tục biến dần vì không mấy nhà còn ống khói. Thay vào đó, theo sáng kiến
của một thợ làm bánh ở Pháp, năm 1875, người ta làm chiếc bánh ngọt có
hình cây củi để mọi người thưởng thức trong đêm Noël và lưu truyền cho
đến nay.
Ngày nay, mỗi Giáng
sinh, chúng ta lại có một ổ bánh kem chocolate nâu hình khúc gỗ được rắc
ít chocolate trắng lên tượng trưng cho tuyết. Trong lễ hội Yule cổ xưa,
người ta phải chuẩn bị một khúc gỗ lớn, đốt lên trong suốt 12 đêm để
đón chào sự trở lại của thần mặt trời. Người dân tin rằng họ sẽ gặp điềm
gở nếu thân cây cháy hết trước lúc kết thúc lễ hội.
Tracy N. (sưu tầm)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét