Giống
như bao nhiêu lần trước, cứ mỗi khi Hà Nội có đủ bạo dạn để phản đối mạnh bước
chân xâm lấn của Trung Quốc thì Bắc Kinh lại lôi ra cái túi gấm cố hữu.
Vào
ngày 20/5/2014, để đáp lại các phản đối ồ ạt quanh việc Trung Cộng kéo giàn
khoan 981 vào thềm lục địa Việt Nam, ông Lưu Hồng Dương, đại sứ Trung Quốc ở
Indonesia đã tuyên bố trên báo Indonesia Jakarta Post rằng:
“Vị
trí của các đảo đã được cộng đồng quốc tế, kể cả Việt Nam, công khai
thừa nhận trong nhiều thập niên từ Thế chiến Hai. Trong tuyên bố ngày 14/9/1958
thay mặt chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công
khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”
Thật
vậy, trong hiện tình Biển Đông và trong suốt bao năm qua, công hàm Phạm Văn
Đồng tiếp
tục là nền tảng pháp lý cơ bản để Trung Cộng khẳng định cái gọi là
"chủ quyền không thể tranh cãi” của họ tại Biển Đông. Công hàm này còn làm
khựng lại các ý định trong vùng Đông Nam Á muốn hợp tác với Việt Nam đem Trung Cộng
ra tòa án quốc tế. Vì ngày nào chính nước chủ nhà còn thừa nhận Biển Đông thuộc
Trung Cộng, thì việc kéo Việt Nam nhập bọn chỉ làm cho các lý cớ kiện tụng của
họ yếu đi mà thôi.
Bắc
Kinh biết rõ công hàm Phạm Văn Đồng là khúc xương khó nuốt của Hà Nội. Và càng
nhìn Hà Nội loay hoay tránh né khúc xương đó, Bắc Kinh càng khai dụng để lấn tới.
Cho đến nay, giới lãnh đạo đảng CSVN vẫn loay hoay tránh né bằng 2 cách rất vô ích
sau đây:
Cách thứ nhất là cãi chày cãi
cối qua
miệng các quan chức như cựu trưởng ban biên giới Lê Công Phụng, cựu trưởng ban
biên giới Trần Công Trục, và gần đây nhất là Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới
quốc gia, Trần Duy Hải, vào ngày 23/5/2014. Lập luận của Ban Tuyên Giáo Trung Ương
là: vì các chữ Hoàng Sa, Trường Sa không được nhắc tới trong bức công hàm nên
không hề có chuyện thừa nhận 2 quần đảo đó là của Tàu. Hoặc bức công hàm chỉ thừa
nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc tính từ bờ thôi chứ không nói tính từ bờ
nào.
Đây
là kiểu lý luận coi tất cả dân Việt Nam là người mù chữ. Nếu lý luận này
đem ra trước quốc tế thì lại càng là trò diễu dở và làm lùn thêm mức uy tín vốn
đã thấp của Hà Nội. Vì công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 tệ hơn thế nhiều.
Nó thừa nhận nguyên cả vùng biển mà Trung Cộng tuyên bố chỉ 10 ngày trước là hải
phận Tàu và còn ghi rõ Việt Nam "ghi nhận", "tán thành", và
hứa sẽ "tôn trọng". Đó chính là đường lưỡi bò 9 vạch. Vùng biển này
không chỉ bao trọn 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà còn bao luôn từ 70% đến
90% toàn vùng Biển Đông, tùy theo cách tính. Nguyên văn cốt lõi của bức công hàm
Phạm Văn Đồng là:
"Chính
phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4
tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa, quyết định về
hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển."
Công
luận quốc tế biết đọc và đã đọc trọn vẹn cả tuyên bố ngày 4/9/1958 của Bắc Kinh
và công hàm ngày 14/9/1958 của Hà Nội. Vì vậy, đã đến lúc nhà cầm quyền CSVN phải
bỏ hẳn những cố gắng vặn vẹo ý nghĩa văn bản này một cách vô ích. Chỉ có con
đường duy nhất là phủ nhận giá trị của toàn bộ bản công hàm Phạm Văn Đồng.
Cách thứ nhì là chỉ nói riêng
với người Việt Nam. Nhà cầm quyền nay đã đưa ra đủ loại biện minh, như lý do gởi
bản công hàm là vì thời điểm đó "có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp
bách đối với Trung Quốc”; như bản công hàm đó "đơn giản chỉ là một cử chỉ
ngoại giao"; như bản công hàm đó không có giá trị pháp lý vì 2 quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa lúc đó thuộc chính thể Việt Nam Cộng Hòa; như công hàm đó không
có giá trị vì "chưa được Quốc hội thông qua" cũng như “Quốc hội
Việt Nam cũng chưa từng bao giờ ra nghị quyết phủ nhận chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”; v.v....
Tất
cả các luận điểm đó là một bước tiến dài nếu nhìn lại các tuyên bố của thời trước
và ngay sau 1975 của các lãnh đạo cao nhất đảng CSVN, như "Trung Quốc chỉ
giữ các đảo giùm ta", hoặc "chẳng thà để Trung Quốc giữ còn hơn để các
đảo nằm trong tay chính quyền ngụy",.... Nhưng các bước tiến đó vẫn hoàn
toàn vô ích đối với chủ quyền đất nước ngày nào mà nhà cầm quyền Việt Nam chưa dám
nói công khai những luận điểm đó trước thế giới.
Nói
cách khác, đã đến lúc giới lãnh đạo CSVN đừng làm việc vừa thừa thãi vừa kỳ cục
là cứ cố gắng thuyết phục người Việt Nam rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt
Nam trên mọi bình diện lịch sử, pháp lý, v.v... Tại sao cứ đòi tranh luận và
thuyết phục những người ĐÃ đồng ý rồi. Có người Việt Nam nào còn ngờ vực điều đó đâu!
Trong khi khối người cần nghe những điều đó một cách chính thức từ miệng nhà nước
Việt Nam là thế giới bên ngoài, đặc biệt là các đầu lãnh tại Bắc Kinh, chứ không
phải người Việt Nam!
Hiển
nhiên ai cũng biết Hà Nội tránh né là vì đang lo sợ phản ứng của Bắc kinh một
khi họ công khai phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng. Nhưng ngược lại, việc phủ nhận
đó sẽ mở rộng con đường đưa Bắc kinh ra trước các tòa án quốc tế; mở rộng cửa
cho các chính sách khác của Việt Nam để đối phó với đại họa Bắc Thuộc; chấm dứt
cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược ngay trong nội bộ giới lãnh đạo đảng CSVN;
và đặc biệt là ngưng vĩnh viễn cảnh trói tay các chiến sĩ Việt Nam làm bia bắn
cho hải quân Tàu như thời Trường Sa 1988.
Không
ai có thể làm công việc phủ nhận công hàm Phạm Văn Đồng thay cho các lãnh tụ đảng
và nhà nước CSVN được, vì họ thừa nhận là chủ thể tiếp nối chính phủ VNDCCH từ
thời ông Phạm Văn Đồng và cũng tự nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất tại Việt
Nam hiện nay.
Cửa
sổ cơ hội cho lãnh đạo đảng CSVN chuyển hướng cũng không còn nhiều. Với vận tốc
xâm lấn từ ngoài khơi đến sâu trong đất liền và tràn lan trên cả nước hiện nay,
lằn mức "không cưỡng bánh xe xâm lược được nữa" đang đến rất gần.
Vấn
đề còn lại là lãnh đạo đảng CSVN đã đủ can đảm để loại bỏ những kẻ thề thốt
"không ăn ở hai lòng với Trung Quốc" ra khỏi hàng ngũ chưa? Đã nhận
ra sự dại dột và từ giã chính sách "thà mất nước chứ không mất đảng"
chưa? Vì một khi nước vừa mất thì kẻ mà Bắc Kinh truy diệt đầu tiên chắc chắn là
đảng./.
Phạm
Nhật Bình
0 nhận xét:
Đăng nhận xét