China Town ở thủ đô Washington, DC, của Mỹ. (Hình: Mark Wilson/Getty Images) |
Huy Phương
Thời
thơ ấu, tôi lớn lên trong một thành phố nhỏ miền Trung, một thành phố
nghèo nàn, quanh quẩn có mấy con phố chính, “đi dăm phút đã trở về chốn
cũ.” Những nhân vật của thành phố này, trong ký ức bề bộn của gần 70 năm
qua, tôi còn nhớ rõ, lạ lùng đối với tôi là những nhân vật người Hoa.
Trên con đường ra chợ, tôi ít khi dám nhìn thẳng vào những ngôi nhà
người người Hoa, với bàn ghế chất đầy, những khung ảnh treo la liệt trên
tường và nhân vật làm tôi sợ hãi nhất là một bà già, chân bó những lớp
vải dày, khuôn mặt quắt queo như xác ướp, với những móng tay dài, cong
vút thường ngồi bất động trên một chiếc ghế, nhìn ra đường.
Trong thành phố
này, hình như tất cả việc buôn bán đều tập trung vào những gia đình
người Hoa, có lẽ đã đến đây cả trăm năm trước khi tôi ra đời. Ở đây tôi
không thấy những nhân vật những người Hoa nghèo khó như người Hoa bán
lạc rang hay đẩy xe mì gõ như sau này khi lớn lên, tôi thấy ở Sài Gòn và
Chợ Lớn. Trong thành phố này có một tiệm thuốc Bắc với bảng hiệu mang
theo chữ “Ðường,” đại khái như Tế Sinh Ðường hay Thiên Lương Ðường, mà
tôi thường lãnh nhiệm vụ mang cái phái thuốc của ông cụ tôi đến “bổ” mấy
thang. Có hai tiệm ăn nằm ở hai con đường khác nhau, mang chữ “Ký” ở
đàng sau, tôi không còn nhớ rõ là Nhuận Ký hay Minh Ký, trông cũng tối
tăm, với những chiếc bàn ghế xỉn màu, mà tôi nghĩ chỉ có những người
sang trọng mới đủ tiền để vào ăn! Tôi vẫn ao ước có dịp đến đó, như để
ăn một bát mì hay được sở hữu một cái bánh bao, nhưng không bao giờ có
dịp, cho đến lúc tôi chưa lên được lớp ba, thì cha tôi đổi việc làm, gia
đình dời đi thành phố khác.
Hầu hết tiệm buôn trong chiếc chợ nhỏ đều do người Hoa làm chủ. Hai
đại lý gạo, một hai tiệm bán dầu hỏa, một đại bài rượu, những tiệp “chạp
phô” bán đủ thứ gia dụng, từ đường, muối, mè, đậu, bột... mà tôi thường
thấy những nông dân mang lên thành phố bán cho họ, cũng như những tiệm
buôn nhỏ ở nhà quê, hay người tiêu dùng thường xếp hàng dài trước các
tiệm buôn này để “cất” hàng.
Trong ngôi chợ nhỏ này, tôi chỉ nhớ người Việt có một cái chợ cá, ồn
ào, hối hả, một khu khác bán rau cỏ, những tiệm bán nồi niêu bằng đất,
đồ nhôm, than củi, hai tiệm bán vải vóc, chăn chiếu. Nhưng những món cần
thiết khác cho đời sống như gạo, muối, đường thì chỉ có thể tìm thấy ở
những tiệm buôn người Hoa.
Trong ý nghĩ của một đứa trẻ, tôi nghĩ trong thành phố này, nếu không
có người Hoa, gia đình tôi sẽ không có cơm, chén nước mắm, hạt muối hay
ly chè hay chén xôi để ăn hay một chai rượu cho cha tôi và bạn bè.
Trong thành phố này tôi không thấy người Hoa nào làm nghề kéo xe, đi làm
thuê hay ngồi xin ăn bên vệ đường.
Mẹ tôi thường khen người Hoa buôn bán thật thà, không nói thách,
không lừa dối khách hàng, trọng chữ tín và có tinh thần tương trợ, giúp
đỡ nhau tận tình. Tôi không biết rõ những người Hoa trong cái thành phố
nhỏ năm xưa ấy thuộc người Quảng Ðông, Tiều (Triều Châu), Hải Nam, Phúc
Kiến, hay là người Hẹ (Hạ Phương), nhưng thấy họ có trường học, chùa
miếu và nghĩa trang riêng.
Tuy người Việt từ xưa đã từng có thời gian lệ thuộc Trung Hoa nhưng
vẫn có cái nhìn miệt thị đối với dân họ, ngoài cách gọi riêng theo gốc
gác như người Quảng, người Tiều, người Hẹ, người Hán, người Ngô, còn thì
chung chung người Hoa được gọi là Khách Trú, Ba Tàu, Các Chú, Chú Chệt,
Chú Khách, Tàu Khựa, Tàu Phù, Tàu Ô...
Người Hoa ít khi gả con gái họ cho người Việt, nhưng trong thành phố
nhỏ ngày xưa đó và cả sau này, tôi thấy nhiều cô gái Việt lấy chồng
người Hoa. Ngày nay gần như người Hoa đã bị đồng hóa, có chăng chỉ còn
lại những cái tên, khuôn mặt và giọng nói.
Thời Pháp thuộc cho mãi đến năm 1954, vùng Chợ Lớn được xem như lãnh
địa của Hoa kiều, phố xá, bảng hiệu chằng chịt chữ Hán. Dưới thời Ðệ
Nhất Cộng Hòa, Hoa kiều muốn sinh sống làm ăn phải nhập tịch Việt Nam,
hoặc ra khỏi nơi đây. Các bảng hiệu, tên họ phải viết lại bằng tiếng
Việt. Tuy vậy, hầu hết trong các nước Ðông Nam Á, người Hoa thao túng
nền kinh tế, các mặt hàng trọng yếu, mua chuộc các giới chức chính quyền
từ trên xuống dưới. Ngay ở miền Nam trước đây, mùa Trung Thu, đường trở
nên khan hiếm. Gạo, sữa và các nhu yếu phẩm đều nằm trong tay các chủ
nhân Hoa kiều. Người Hoa nổi tiếng là hối lộ giỏi, kín đáo. Những chức
vụ quận trưởng, cảnh sát trưởng các địa phương đông người Hoa đều là
những chức vụ béo bở, không phải là họ hàng thân tín, thì cũng phải chạy
bằng tiền.
Vụ “trở cờ” lớn nhất của Hoa kiều tại Việt Nam là sau ngày 30 Tháng
Tư, 1975, khi Cộng Sản Bắc Việt tràn vào Sài Gòn, Chợ Lớn đồng loạt treo
cờ Trung Cộng đỏ rực cả một vùng, nhưng sau đó là cờ này phải hạ xuống
và khi việc đánh tư sản bắt đầu, Hoa kiều là những nạn nhân đầu tiên.
Cuối cùng một số người Hoa trở về cố quốc qua biên giới phía Bắc, phần
bỏ nước Việt ra đi tị nạn, vượt biển, tăng con số Hoa kiều ở Châu Mỹ lên
cao, trong khi đó gần đây qua các doanh nghiệp và công trình được ký
kết giữa Việt Cộng và Trung Cộng, một số người Hoa lại tràn sang Việt
Nam. Cuối cùng đi đâu cũng thấy người Hoa!
Nhiều khi tôi tự hỏi, ngày xưa, không biết người Hoa rời đất nước họ
bằng phương tiện gì và cái bản năng sinh tồn, ý chí kiếm sống của họ
mạnh đến mức nào mà trên trái đất này không có chỗ nào là không có mặt
họ? Từ thế kỷ 16, 17 người Hoa đã bỏ nước ra đi, để ngày nay họ có 40
triệu người ở hải ngoại, Châu Á có 31 triệu ở Singapore, Indonesia,
Philippines, Thái Lan, Malaysia, Cambodia, Lào, Việt Nam, và ngay tại Mỹ
cũng có trên 3.5 triệu người Hoa sinh sống.
Người Hoa bỏ xứ ra đi vào những năm cuối thế kỷ 17 cho đến đầu thế kỷ
18 để tránh sự đàn áp của chế độ nhà Thanh (phản Thanh phục Minh) nhưng
thực tế là những đợt di dân ồ ạt vì sinh kế. Câu chuyện ông Hui Bon Hoa
ở Sài Gòn, lập nghiệp từ một gánh ve chai trở thành tỉ phú, đã nói lên
khả năng cần cù, chịu khó và làm thương mãi giỏi của người Hoa trên thế
giới.
Khi lớn lên, ra đời, đi xa, ở đâu tôi cũng thấy có sự hiện diện của
người Hoa như câu nói “Ở đâu có khói là có người Tàu!” Móng Cáy, Lào
Cai... là biên giới cực Bắc đã đành, vì sao tận cùng phía Nam của nước
Việt, Cà Mau, Châu Ðốc, Hà Tiên đi đâu cũng đụng người Hoa, đến nỗi xứ
Bạc Liêu có câu ca dao được truyền tụng: “Bạc Liêu nước chảy lờ đờ, dưới
sông cá chốt, trên bờ Triều Châu!”
Bây giờ ở Mỹ, đi thành phố nào cũng thấy “China Town,” xứ nào phát
triển thương mãi nhiều thì xứ đó có nhiều người Hoa như San Francisco,
Los Angeles, New York... mà không phải ở Châu Mỹ, cả đến những xứ xa
xuôi như Ghana, Haiti, Thổ Nhĩ Kỳ, Romania... cũng có người Hoa.
Ít khi thấy người Hoa mang ơn đất nước đã cho họ đời sống mới, chỉ
thấy gián điệp Trung Cộng có mặt khắp nơi, trong các địa hạt chính trị,
quốc phòng, thương mãi... Nói chung nước nào cũng sợ người Hoa!
Bị lệ thuộc Tây Ban Nha trong vòng 300 năm, gia tài văn hóa truyền
thống của Mexico đã bị phá hủy, ngày nay đất nước này có số lượng người
nói tiếng Tây Ban Nha cao nhất trên thế giới và tôn giáo chủ yếu tại đây
là Công Giáo La Mã. May mắn, với gần 1,000 năm lệ thuộc, người Việt
chưa ai nói tiếng Hoa, có chữ viết, phong tục riêng, chiếc áo dài có thể
gài bên tay phải thay vì gài nút bên tay trái, nhưng rõ ràng là chúng
ta chưa “mất gốc.”
Tuy trong đời sống của mỗi người Việt Nam hình như đều có một chút
văn hóa người Hoa, một ấm trà, một câu thơ, một bức tranh thủy mạc, coi
tuồng Hồ Quảng, hương khói, nhang đèn mù mịt, ngày nay người ta đem cả
đoàn lân vào trong chánh điện nhà chùa, nhưng rồi cuối cùng trong bữa
cơm cũng phải có một chén nước mắm thay vì... xì dầu.
Tạp ghi Huy Phươnghttp://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=188782&zoneid=97#.U4SaOHZGT2Q
0 nhận xét:
Đăng nhận xét