Ở Việt Nam có rất nhiều loại bánh khi gọi tên khiến người nghe phải bất ngờ và tò mò về hương vị của nó.
Đi dọc chiều dài ẩm thực Việt Nam ta sẽ phát hiện và say mê với nhiều món bánh có cái tên lạ tai nhưng hương vị vô cùng hấp dẫn.
Bánh uôi
Bánh uôi là đặc sản của người Mường ở Hòa Bình, bánh có rất nhiều tên
gọi khá hay, ý nghĩa và mĩ miều khác như bánh tình yêu, bánh cặp, bánh
vợ chồng hay bánh đoàn kết.... Theo người dân nơi đây, bánh uôi chính là
niềm tự hào của người Mường, là một nét độc đáo trong nền văn hóa ẩm
thực của một miền sơn cước.
Nguyên liệu chính để làm nên loại bánh thơm ngon này là bột gạo nếp
nương. Loại bánh rất giản dị, có hình dáng và hương vị rất đặc biệt đem
lại sự thích thú cho người ăn. Bánh uôi có hai loại bánh nhân mặn và
bánh ngọt. Bánh nhân ngọt được làm từ hạt nho nhe (một loại hạt có ở xứ
Mường, Hòa Bình) hoặc từ đậu xanh. Còn nhân mặn sẽ có thịt lợn tẩm ướp
gia vị.
Bánh được gói với lá chuối đã được phơi cho tái hoặc hơ qua lửa, làm
như vậy khi gói lá sẽ không rách mà bánh cũng vì thế mà thơm hơn. Ăn
bánh uôi cũng như ăn bánh nếp, phải tước từng chút lá một nếu không bánh
sẽ bị bong ra từng mảng nhân, rất khó thưởng thức.
Bánh rất thơm, dẻo, vỏ bánh trắng ngần, nhân bánh ngọt mát từ đậu
xanh hay hạt nho nhe. Nếu thưởng thức những chiếc bánh mặn, bạn sẽ thấm
được hương sắc núi rừng trong từng chút thịt được gói trong bánh.
Bánh tro
Bánh tro còn được biết đến với cái tên khác như là bánh gio, bánh
nẳng, thường được bày bán trong các dịp Tết Đoan Ngọ bởi người ta luôn
tin rằng khi ăn bánh tro, cũng như hoa quả và rượu nếp vào ngày này,
bệnh tật trong người sẽ tiêu tan hết.
Bánh tro được bán nhiều trong các dịp Tết Đoan Ngọ
Bánh tro có hình thuôn, dài nhưng ngắn hơn chiếc bánh răng bừa của người
Thanh Hóa. Tuy nhỏ nhưng bánh không hề dễ làm. Người ta phải rất tỉ mỉ,
kỹ càng từ khâu chọn loại nếp đều hạt, thơm, đến cách gạn nước tro được
đốt từ những cây rơm nếp vàng óng, đã được rửa sạch và gói, luộc, rồi
cuối cùng mới có thứ bánh thơm nồng mùi khói bếp.
Bánh tro ăn với mật mía rất ngon (Ảnh: Internet)
Khi bóc lớp vỏ bên ngoài sẽ lộ ra một lớp thịt bánh có sắc vàng pha
nâu trong trẻo, óng ánh tới mức nhìn rõ dáng hình hạt gạo nếp cái hoa
vàng nở đều tăm tắp. Khẽ khàng nhúng bánh vào trong bát mật mía mới đun
trên bếp còn ấm nóng, thả vào miệng thưởng thức. Bánh mềm mịn, man mát
hòa quyện với vị ngọt của mật mía rồi tan ra, ôm trộn cả vị giác.
Bánh tai
Bánh tai là tên gọi loại bánh nổi tiếng của tỉnh miền núi Phú Thọ -
món bánh làm nức lòng bao khách phương xa thưởng thức. Nghe nói, bánh
tai trước kia được gọi là bánh trai vì bánh được nặn theo hình con trai,
sau đó được gọi tắt là bánh tai. Bánh được làm vẫn những nguyên liệu đó
nhưng dài hơn và nặng hơn.
Bánh tai nổi tiếng ở thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ (Ảnh: Internet)
Để làm được chiếc bánh tai ngon thì trước tiên là phải chọn được loại
gạo tẻ ngon, trắng, dẻo, đây là khâu quan trọng quyết định đến chất
lượng của chiếc bánh tai. Xong rồi đến kỹ thuật làm bánh, nhân bánh. Qua
những bàn tay nhào nặn tài tình, những bí quyết gia truyền riêng, những
chiếc bánh tai nóng hổi đã ra lò thơm mùi bột quyện trong mùi thịt,
hành ngây ngất.
Ở nơi đây, bánh tai là thứ quà sáng rất đặc biệt bởi nó dễ ăn, lại
lành tính. Khi ăn, phải nếm chậm rãi, cắn từng miếng nhỏ mới có thể cảm
nhận hết được hương vị trong từng miếng bánh. Thưởng thức xong rồi mà
mùi thơm của bánh vẫn còn phảng phất đâu đây mãi chẳng rời.
Bánh răng bừa
Nghe cái tên thật lạ thật hay mà hương vị của nó cũng thật thơm ngon,
thú vị. Bánh răng bừa (có nơi gọi là bánh tẻ hoặc bánh lá), riêng người
Thanh Hóa gọi tên như thế vì hình dạng chiếc bánh trông giống cái răng
bừa. Đây là loại bánh truyền thống của người xứ Thanh thường được làm
vào ngày rằm, ngày giỗ, ngày Tết Nguyên đán hay những khi nhà có công
việc.
Bánh răng bừa, một trong những đặc sản của người Thanh Hóa (Ảnh: Internet)
Nguyên liệu làm bánh răng bừa chính là gạo tẻ. Khi làm, người ta phải
chọn loại gạo dẻo, thơm ngâm nước khoảng 3 - 4 giờ sau đó đem xay thành
bột cùng với nước. Bột được xay xong cho lên bếp khuấy, trong quá trình
này phải chú ý tay khuấy đũa liên tục sao cho bột không bị vón cục và
cũng không quá chín, đây là công đoạn đòi hỏi người làm bánh phải thật
khéo léo. Khi thấy nồi bột gạo có độ đặc sền sệt thì ta bắc xuống bếp,
chuẩn bị công đoạn gói bánh. Lá dong hay lá chuối thường được dùng để
gói bánh.
Nghe cái tên thật lạ thật hay mà hương vị của bánh
cũng thật thơm ngon, thú vị (Ảnh: Internet)
Còn nhân bánh là tổng hòa của các hương vị từ hành khô, mộc nhĩ, thịt ba chỉ, hạt tiêu, gia vị.
Khi những chiếc bánh thon dài được gói xong sẽ được đem hấp hoặc luộc
tới khi chín cho đến lúc mùi thơm của thịt ba chỉ, mộc nhĩ, hạt tiêu
hòa với mùi bột gạo tỏa ra mùi thơm ngào ngạt căn bếp nhỏ, cũng là lúc
báo hiệu bánh chín.
Bánh răng bừa nóng hổi, cùng lớp bột tẻ mềm, mịn trắng pha lẫn chút
màu xanh của lá với phần nhân hành thịt thơm nức mũi chấm chìm vào nước
pha loãng rồi chậm rãi cho lên miệng thưởng thức. Có lẽ, lúc ấy bạn sẽ
cảm nhận được bao nhiêu tinh hoa của đất, của trời được tích tụ trong
chiếc bánh.
Bánh ram ít Huế
Nghe tên bánh rất lạ nhưng đây lại là món bánh thơm ngon, đặt trưng
của người Huế và được nhiều người mê đồ ăn Huế rất ưa thích. Cũng có khá
nhiều người thắc mắc tại sao bánh có tên là “ít”, phải chăng vì cái
bánh nhỏ bé, chỉ bằng chiếc bánh trôi? Xong tên gọi đó từ đâu mà có cũng
chưa hẳn quan trọng bằng việc hương vị tuyệt vời của món bánh.
Bánh ram ít có hai phần, một phần dưới là bánh ram (được chiên lên),
phần trên là bánh ít (Ảnh: Internet)
Bánh ram ít Huế có hai phần, bánh ram và bánh ít. Để làm bánh cần có
đầy đủ các nguyên liệu như tôm tươi, tôm chấy, thịt ba chỉ, bột nếp,...
Đầu tiên, khi làm bánh, người ta đổ bột nếp ra thau hoặc nồi, thêm
một chút muối và dầu ăn cho vừa rồi trộn đều. Đun nước sôi để nguội tầm
60oC rồi đổ nước vào bột trộn đều đến khi nào bột dẻo, quện
lại với nhau, không dính tay thì thôi. Chia bột làm 2 phần, một phần bạn
dùng để làm bánh ít, phần còn lại dùng làm bánh ram.
Phần bột làm bánh ram thì đem nặn dẹt rồi chiên lên. Còn phần bánh ít
sẽ được gói với hỗn hợp nhân thịt, tôm đã được xào qua rồi viên tròn
lại giống như bạn đang làm những chiếc bánh trôi sau đó đem hấp chín.
Chỉ cần làm tới đây thôi bạn đã cảm nhận được hương thơm nghi ngút của
bánh khiến chẳng thể cầm lòng và muốn thưởng thức ngay thôi.
Để làm nước chấm bánh ram ít thì cần lấy nước luộc tôm khô hòa với
nước mắm ngon, đường, tỏi và ớt bằm thật nhuyễn, thêm vào một ít chanh
hoặc giấm, khuấy đều. Nước chấm cần làm sao cho thật vừa và có đủ vị
chua cay mặn và hơi ngọt một chút. Thậm chí nếu muốn đậm đà hơn thì cho
hẳn tôm khô đã băm nhuyễn vào chén nước chấm, ngọt đậm và thơm thoang
thoảng.
Cái hấp dẫn nhất của bánh ram ít Huế chính là sự kết hợp giữa vị giòn
tan, beo béo của bánh ram với vị thơm, dẻo rất đặc trưng của đậu và nếp
của bánh ít và vị ngọt thanh cay cay của nước mắm
Bánh ướt
Tuy có cái tên lạ tai và có vẻ ướt át nhưng món bánh lại không hề như
vậy. Bánh chỉ mềm mại, và được tráng mỏng như bánh cuốn nhưng có màu
sắc sáng và trắng hơn một chút. Nghe nói, nguồn gốc xuất xứ của bánh là
từ Trung Quốc, nhưng khi vào Việt Nam ở từng vùng khác nhau, bánh ướt
lại được chế biến rất sáng tạo và mang từng hương vị độc đáo riêng. Ở
ngoài Bắc thì bánh ướt chính là bánh cuốn.
Bánh ướt có đặc điểm thường là không có nhân được bán rất nhiều trong các chợ của Huế. Bánh được chấm với nước mắm chua ngọt.
Bánh ướt (Internet)
Tuy nhiên, vì thơm ngon nên thứ bánh này được du nhập tới nhiều nơi,
nhất là Sài Gòn. Ngoài ra, cũng có những món bánh ướt đặc biệt bởi nó
được làm khá cầu kì như bánh ướt thịt nướng, bánh ướt tôm chấy (phổ biến
nhất ở Huế), bánh ướt thịt lợn, thịt gà, thậm chí là hải sản hoặc thập
cẩm… Riêng bánh ướt thịt nướng chấm với nước tương. Thứ nước tương này
được làm khá tỉ mỉ từ gan lợn băm nhỏ, tỏi giã nhỏ, hạt vừng rang. Cho
vài muỗng dầu ăn vào chảo bắc lên bếp, dầu sôi cho tỏi vào, rồi đổ thêm
tương, gan, mè, đường… để sôi một lát cho thấm là ăn được. Chẳng cần nếm
mà chỉ ngửi mùi thôi cũng cảm thấy nước chấm ngon ngây ngất rồi.
Bánh vạc
Bánh vạc là một món ăn đặc trưng Hội An (Quảng Nam). Do có hình dáng
nhỏ nhỏ, xinh xinh và có màu trắng trông như những đoá hoa hồng nên bánh
vạc còn có tên gọi là White Rose (hoa hồng trắng). Đây là món ăn khá
phổ biến trong thực đơn của các nhà hàng, quán ăn ở Hội An.
Bánh vạc là một món ăn đặc trưng Hội An (Quảng Nam) (Ảnh: Internet)
Nguyên liệu chính để làm bánh vạc là tinh bột gạo, nhưng để có được dĩa
bánh vạc như ý thì bột gạo phải được lọc đi lọc lại nhiều lần.
Bánh vạc nhìn trắng muốt, nhỏ xinh như những bông hoa (Ảnh: Internet)
Nhân bánh vạc chủ yếu làm từ tôm tươi, hay thịt xay nhuyễn trộn với
tiêu, hành, nấm mèo, muối, nước mắm… tất cả được xào chín theo kiểu
truyền thống, hoặc để sống theo cách làm hiện nay (để nhân được đẹp,
nên viên nhân thành những viên tròn rồi bọc ở bên ngoài bằng một lớp bột
sắn dây mỏng, hấp chín cho trong). Bột lấy lượng vừa khéo, cán mỏng,
rồi cho nhân lên trên, ấn nhẹ để nhân dính chặt vào vỏ bánh. Xếp bánh
vào vỉ hấp khoảng 5 đến 7 phút, bánh chín sẽ trắng trong trông rất hấp
dẫn.
Bánh cóng
Bánh cóng (hay còn gọi bánh cống) là một món ăn khá nổi tiếng được
bán ở hầu khắp chín tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Có người cho rằng bánh
cóng có nguồn gốc từ đồng bào Khơme Nam Bộ và trong quá trình giao lưu
ẩm thực được người Hoa và người Kinh thay đổi đôi chút, tuy nhiên cũng
có người kể rằng bánh cóng do một số người Triều Châu (Trung Quốc) di cư
đến Sóc Trăng và truyền lại cho đồng bào Khơme với tên gọi là bánh sền
hay nói trại đi là bánh sầy, đến nay thì tất cả người Nam Bộ đều gọi là
bánh cóng cho dễ nhớ do khuôn bánh có hình dạng giống như chiếc cóng -
một dụng cụ dùng để đong chất lỏng của các quầy tạp hóa ngày trước.
Nhưng dù có nguồn gốc từ đâu thì khi nói đến bánh cóng ta nghĩ ngay
đến bánh cóng Sóc Trăng, và nổi tiếng nhất Sóc Trăng có lẽ phải kể đến
bánh cóng Xoài Cà Nã ở xã Đại Tâm- huyện Mỹ Xuyên bởi bánh có độ giòn,
độ xốp vừa phải, lại rất thơm và có màu vàng ươm bắt mắt.
Lại một món ăn của người Khmer ở Sóc Trăng. Bánh cóng - đặc sản Sóc
Trăng - hay còn có tên gọi khác là bánh cống, bánh sầy hoặc sài cá nại
theo tiếng Khmer. Bánh cóng ngày nay phổ biến ra rất nhiều tỉnh khác
thuộc miền Tây Nam bộ, đặc biệt là Cần Thơ.
Bánh cóng là một trong những món ăn tiêu biểu nhất, đáng thử nhất Sóc
Trăng
nói riêng và miền Tây Nam Bộ nói chung (Ảnh: Internet)
Bánh có vỏ làm từ bột gạo, bột đậu nành và trứng, còn nhân bánh là
thịt heo băm ướp gia vị và trộn với củ hành tím xắt nhỏ và một ít đậu
xanh hấp. Bánh cóng nhìn cực kì đẹp mắt và hấp dẫn.
Từng chiếc vàng ruộm, lại nổi lên hình tôm đỏ. Ăn cùng với các loại
rau thơm, rau sống như húng lủi, quế, xà lách, cải xanh… chấm nước mắm
chua ngọt với gừng thái nhỏ, cải đỏ, cải trắng… khiến người ăn khó mà
ngán được.
Hương vị đặc trưng đầy nét cuốn hút của bánh cóng làm bất cứ ai cũng
phải mê mẩn: béo mỡ, bùi đậu xanh, đậu nành, ngọt tôm, thơm thịt, đậm đà
gia vị lại còn man mát cay cay hăng hăng các loại rau.
Bánh hỏi
Bánh hỏi là một món ăn đặc sản có rất nhiều ở Vũng Tàu, Bến Tre, Phú
Yên, Nha Trang, Bình Định của Việt Nam, bánh được làm từ bột gạo và có
quy trình chế biến đặc biệt công phu, tỉ mỉ. Bánh hỏi thường ăn chung
với mỡ hành, thịt quay, thịt nướng, lòng heo... đây là món ăn không thể
thiếu trong những dịp lễ, cúng giỗ, cưới hỏi, lễ cúng ở đình, chùa của
người dân và là một nét văn hóa ẩm thực của địa phương.
Bánh hỏi thịt quay
Bánh hỏi khi dùng thường thêm chút dầu phụng cùng với lá hẹ thái nhỏ li
ti thoa lên miếng bánh để thêm hương vị. Bánh hỏi thường chỉ ăn với lá
hẹ, không dùng cho các thứ bánh khác do lá hẹ rất xanh, hương thơm nhẹ.
Lá hẹ sau khi thái nhỏ, được xào qua dầu ăn cho thơm. Hương vị chính của
món bánh hỏi là do lá hẹ khử dầu tạo nên.
Theo EVA.VN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét