Vào nửa đầu thế kỷ 20, trên thế giới, Đức xâm lăng Ba Lan ngày
1-9-1939. Anh và Pháp quyết định tuyên chiến với Đức ngày 3-9-1939, khởi
đầu thế chiến thứ hai (1939-1945). Đức tấn công Pháp, chiếm Paris ngày
14-6-1940. Yếu thế, Pháp ký hiệp ước đình chiến với Đức ngày 22-6-1940,
theo đó Đức chiếm đóng miền tây bắc, khoảng 3/5 nước Pháp. Chính phủ
Pháp do thống chế Pétain lãnh đạo chỉ còn khoảng 2/5 nước Pháp về phía
nam.
Cũng trong năm nầy, các nước Đức, Nhật, Ý ký kết Hiệp ước Liên minh tay ba tại Berlin (thủ đô Đức) ngày 27-9-1940, thường được gọi là khối Trục Bá Linh-La Mã-Đông Kinh (Berlin-Roma-Tokyo Axis). Trong khi Đức và Ý tung hoành tại Âu Châu, thì Nhật bành trướng ở Á Châu, tấn công Trung Hoa và gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng khi đánh chiếm Nam Kinh năm 1937.
Sau khi Đức xâm lăng Pháp năm 1939, quân đội Nhật đến Hà Nội năm 1940,
áp lực Pháp để cho Nhật đóng quân ở Đông Dương, ký kết nhiều hiệp định
kinh tế có lợi cho Nhật. Từ đó, trên danh nghĩa, Nhật vẫn để Pháp cai
trị Đông Dương cho đến năm 1945 để khỏi lo việc hành chánh và an ninh
Đông Dương, nhưng Nhật hoàn toàn thao túng công việc ở Đông Dương trong
đó có Việt Nam.
Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương ngày 9-3-1945
Vào năm 1941, hai biến cố quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh
thế giới và sẽ ảnh hưởng đến Đông Dương: 1) Tuy đã ký hiệp ước bất tương
xâm với Liên Xô ngày 23-8-1939 (hiệu lực trong vòng 10 năm), Đức bất
ngờ tấn công Liên Xô ngày 22-6-1941. Liên Xô vốn thân thiện với Đức,
chống lại Anh, Hoa Kỳ. Nay bị Đức tấn công, Liên Xô ở thế phải chống
Đức, quay qua thân thiện với các nước Tây phương. (Vì vậy, ở Á Châu,
cộng sản Việt Nam cộng tác với quân Mỹ.) 2) Ngày 6-12-1941, tổng thống
Hoa Kỳ là Franklin Roosevelt viết thư đề nghị với Nhật hoàng Hirihito
(trị vì 1926-1989) ký hiệp ước bất tương xâm giữa Hoa Kỳ và Nhật, và đề
nghị Nhật rút ra khỏi Đông Dương. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập A: 1939-1946, Nxb. Văn Hóa, Houston, Texas, 1996, tr. 125.)
Đáp lại, quân đội Nhật bất ngờ tấn công Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) ở
Hawaii ngày 7-12-1941, tàn phá hạm đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương và giết
hơn 2,400 người Hoa Kỳ. Ngày 8-12-1941, Hoa Kỳ và Anh tuyên chiến với
Nhật. Ngày 11-12-1941, Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức và Ý.
Quân đội Nhật ào ạt đổ bộ lên miền nam Thái Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai
(8-12), tấn công Manila (8-12), đến quần đảo Luzon (10-12-1941), chiếm
Bataan (9-4-1942) và toàn bộ Phi Luật Tân (5-1942). Tuy nhiên, tình hình
thay đổi từ năm 1944. Tướng Charles de Gaulle (Pháp) trở về Paris ngày
25-8-1944, lập chính phủ Pháp lâm thời ngày 10-9-1944. Chính phủ nầy
chống Đức, tức cũng chống đồng minh của Đức là Nhật. Về hành chính, sau
khi chính phủ Pétain thân Đức sụp đổ, nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương
nằm dưới quyền của chính phủ mới ở Paris do De Gaulle (chống Đức) lãnh
đạo.
Cũng từ năm 1944, tại Đông Nam Á, Nhật bắt đầu thất thế trước sự phản
công của quân đội Đồng minh. Ngày 20-10-1944, quân Hoa Kỳ đổ bộ tại
Leyte, ở Philippines. Nhật dự tính rút quân về Nhật. Có thể vì Nhật lo
ngại nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương sẽ theo lệnh tân chính phủ Pháp ở
Paris, mở cửa ở Đông Dương cho quân đội Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương,
hoặc mật báo cho phi cơ Đồng minh tấn công những vị trí quân sự của
Nhật, nên Nhật ra tay trước, tổ chức cuộc hành quân Meigo, xóa bỏ nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương.
Ngày 9-3-1945, đại sứ Nhật tại Đông Dương là Matsumoto Shunichi gặp toàn
quyền Jean Decoux tại Sài Gòn lúc 8 giờ tối, đưa tối hậu thư buộc nhà
cầm quyền Pháp phải đặt lực lượng quân sự Pháp trên toàn cõi Đông Dương
dưới sự điều khiển của người Nhật ngay tức khắc. Decoux kiếm cách trì
hoãn, liền bị quân Nhật bắt và đưa đi giam ở Lộc Ninh. Cuộc đảo chánh
diễn ra không mấy khó khăn trên toàn cõi Đông Dương. Trong vòng hai
ngày, quân Nhật làm chủ toàn cõi Đông Dương.
Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của Việt Nam
Đại sứ Nhật tại thủ đô Huế là Massayuki Yokoyama yết kiến vua Bảo Đại
tại điện Thái Hòa (trong hoàng thành Huế) sáng ngày 11-3-1945, giải
thích những hành động mới nhất của Nhật tại Việt Nam, và tuyên bố muốn
đem "châu Á trả về cho người châu Á". Ông ta còn nói rằng ông ta có "nhiệm vụ dâng nền độc lập" lên vua Bảo Đại, đồng thời kêu gọi Việt Nam cùng các nước Đông Dương gia nhập khối Đại Đông Á do Nhật đứng đầu. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tr. 159.) Khối nầy đã được chính phủ Nhật công bố thành lập ngày 1-8-1940, cách đó 5 năm.
Chiều ngày 11-3-1945, vua Bảo Đại triệu tập Cơ mật viện, các thượng thư
và các hoàng thân hội họp và đưa đến kết quả là nhà vua cùng các thượng
thư Phạm Quỳnh (bộ Lại), Hồ Đắc Khải (bộ Hộ), Ưng Hy (bộ Lễ), Bùi Bằng
Đoàn (bộ Hình), Trần Thanh Đạt (bộ Học), và Trương Như Đính (bộ Công),
đồng ký bản Tuyên Ngôn Độc Lập do Phạm Quỳnh soạn như sau:
"Chiếu tình hình thế giới nói chung, và tình hình Á châu nói riêng,
chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay,
hiệp ước bảo hộ ký với nước Pháp [năm 1884] được bãi bỏ, và đất nước thu
hồi chủ quyền độc lập quốc gia.
Nước Việt Nam cố gắng tự lực, tự cường, để xứng đáng là một quốc gia
độc lập, và sẽ theo đường hướng của bản tuyên ngôn chung của khối Đại
Đông Á, hầu giúp đỡ nhau tài nguyên cho nền thịnh vượng chung.
Vì vậy, chính phủ nước Việt Nam đã đặt tin tưởng vào sự thành tín của
nước Nhật, và đã có quyết định cộng tác với nước nầy, hầu đạt mục đích
nói trên.
Khâm thử
Huế, ngày 27 tháng giêng năm thứ 20 triều Bảo Đại.” (Bảo Đại, sđd. tr. 162)
Do tình hình thế giới biến chuyển và do sự can thiệp của Nhật Bản, vua
Bảo Đại đã lợi dụng thời cơ, tuyên bố từ nay nước Việt Nam chính thức
độc lập. Đây là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của Việt Nam, chấm dứt nền bảo hộ của Pháp đã được thiết lập hơn 60 năm.
Khi đảo chánh lật đổ Pháp, mục đích chính của người Nhật nhắm chống lại
Đồng minh và bảo toàn lực lượng Nhật trên đường lui quân về nước. Lúc
nầy Nhật không còn tham vọng bành trướng. Vì vậy, khác với người Pháp
trước đây ở Đông Dương, người Nhật chỉ kiểm soát về quân sự, để cho vua
Bảo Đại tự trị, không can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Tuy nhiên nền độc lập Việt Nam lúc đó khá bấp bênh vì Nhật Bản sắp thua
trận, trong khi Pháp vẫn không từ bỏ tham vọng đế quốc, sẽ kiếm cách trở
lui Đông Dương.
Phản ứng của Pháp
Tháng 9-1943, từ Alger Ủy ban Giải Phóng Dân tộc Pháp (UBGPDT) (Comité
Française de Libération Nationale, lập ngày 3-6-1943 đến ngày 3-6-1944)
quyết định cử tướng Charles A. H. Blaizot phụ trách Đạo quân Viễn chinh
Viễn đông, nhắm đến Đông Dương. Ngày 8-12-1943, cũng từ Alger, UBGPDT
Pháp ra thông báo về chính sách đối với Đông Dương, có đoạn như sau:
“... Với các dân tộc đã biết xác định cùng một lúc tình cảm yêu nước
và ý thức trách nhiệm chính trị của mình, nước Pháp đồng ý ban hành,
trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị mới mà, trong khuôn khổ
của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước khác nhau trong
Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do rộng rãi của các
chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn minh và
truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể nhận
làm bất cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.
Cùng với sự cải cách quy chế chính trị nầy, sẽ có một cuộc cải cách
quy chế kinh tế của cả Liên hiệp mà, trên căn bản tự trị về quan thuế và
thuế khóa, sẽ bảo đảm sự phồn thịnh của Liên hiệp và góp phần vào sự
phồn thịnh các lân bang...” (Philippe Devillers, Paris Saigon Hanoi, Paris: Gallimard- Julliard, 1988, tr. 23.)
Tuy hứa hẹn như trên, nhưng sau đó, khi Đức bắt đầu thua trận, và Đồng
minh càng ngày càng thắng thế, thì UBGPDT Pháp thay đổi thái độ. Ngày
1-2-1944, để chuẩn bị tái chiếm Đông Dương, tướng Charles de Gaulle ra
lệnh cho tướng Charles André Henri Blaizot thành lập Lực lượng Viễn
chinh Pháp tại Viễn đông (F.E.F.E.O = Forces Expéditionnaires Françaises
d'Extrême-Orient), gồm 2 lữ đoàn thuộc địa là Madagascar và Cameroun,
và một đơn vị khinh binh ứng chiến (Corps léger d'intervention). Đạo
quân F.E.F.E.O của Pháp được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đông Nam Á (South East
Asia Command = SEAC) do đô đốc người Anh là bá tước Louis Mounbatten
điều khiển. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Paris: Editions Du Seuil, 1952, tr. 145.)
Trong cuộc họp của UBGPDT Pháp do De Gaulle chủ trì tại Brazzaville ở
Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại Phi Châu, từ 30-1 đến 8-2-1944,
để thảo luận về các vấn đề thuộc địa sau thế chiến thứ hai, bản tuyên bố
vào cuối Hội nghị có đoạn viết như sau:
“Các mục đích của sự nghiệp thực dân mà nước Pháp thực hiện tại các
thuộc địa đã loại bỏ ý định tự trị, mọi khả năng tiến hóa ngoài khuôn
khổ đế quốc Pháp: cơ cấu một chính phủ tự trị có thể có tại các thuộc
địa dù cho còn lâu mới được thực hiện, phải bị loại trừ.” (Hoàng Hiển, Vua Duy Tân, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1996, tr. 90.)
Tiếp đó, khi Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945, vua Bảo Đại
đưa ra bản Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3, làm cho De Gaulle rất tức giận.
Gần nửa tháng sau, De Gaulle đưa ra bản tuyên bố ngày 24-3-1945 về vấn
đề Đông Dương như sau:
“Liên bang Đông Dương sẽ hợp cùng với nước Pháp và các thành phần
khác trong cộng đồng thành Liên Hiệp Pháp, mà nước Pháp sẽ đại diện để
đảm trách những quyền lợi ở bên ngoài. Đông Dương sẽ được hưởng nền tự
do riêng trong Liên Hiệp nầy.
Những người thuộc quốc tịch liên bang Đông Dương sẽ là công dân Đông
Dương và công dân Liên Hiệp Pháp. Với tư cách nầy, họ sẽ được giữ một
cách công bằng theo khả năng mọi chức vụ và công việc liên bang ở Đông
Dương cũng như trong Liên Hiệp Pháp, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo,
nguồn gốc.
Những điều kiện theo đó Liên bang Đông Dương sẽ tham gia vào các cơ
chế Liên Hiệp Pháp, cũng như quy chế công dân Liên Hiệp Pháp, sẽ được ấn
định bởi Hội đồng lập hiến.” (Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, Le salut: 1944-1946, Paris: Plon, 1959, tr. 439.)
Tuyên bố của Hội nghị Brazzaville năm 1944 cùng tuyên bố của De Gaulle
ngày 24-3-1945 cho thấy tham vọng của Pháp là muốn tái lập nền thống trị
tại Đông Dương, về sau sẽ giải thích thái độ im lặng của chính phủ lâm
thời Pháp do De Gaulle lãnh đạo, trước thông điệp kêu gọi giúp đỡ của
vua Bảo Đại gởi các cường quốc, sau khi Nhật Bản đầu hàng 14-8-1945 và
trước khi Việt Minh cộng sản cướp chính quyền.
Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945 của vua Bảo Đại chẳng những bị chính
quyền Pháp bất bình, mà còn bị báo chí Pháp chỉ trích là ông đã phản bội
nước Pháp khi tuyên bố độc lập. Về sau, trong một cuộc họp báo tại
khách sạn Ritz ở Paris vào đầu năm 1948, Bảo Đại lúc đó là cựu hoàng,
giải thích:
“Ngày 6 tháng 6 năm 1884, khi ông bác Kiến Phúc tôi còn là ấu quân,
quan phụ chánh Vương quốc An Nam đã ký với nước Pháp, một hiệp ước bảo
hộ. Theo điều 16 của hiệp ước nầy, để đổi lại những ưu quyền dành cho
nước Pháp, nước Pháp long trọng cam kết che chở cho Vương quốc An Nam,
bảo đảm an ninh cho Quân vương, Hoàng đế An Nam chống lại bất cứ nội
loạn hay ngoại xâm nào. Thế mà năm 1945, trước sự xâm lăng của Nhật Bản,
và trước cuộc nổi dậy của cách mạng Việt Minh, thì đâu là những lời cam
kết của Pháp?... Vậy thì ai là người đầu tiên đã không làm tròn bổn
phận đối với lời cam kết? Ai làm cho nó lỗi thời, mất hết hiệu lực? Ai
đã vi phạm hiệp ước?” (Bảo Đại, sđd. tr. 307.)
Như thế, trong khi Pháp gặp nhiều khó khăn ở Âu Châu, bị Đức xâm lăng và
chiếm đóng một nửa phía bắc nước Pháp, thì Nhật Bản xuất hiện ở Đông
Dương, đảo chánh lật đổ Pháp ngày 9-3-1945.
Chính trong hoàn cảnh nầy, dựa vào sự ủng hộ của người Nhật, ngày
11-3-19-1945 vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ hiệp ước bảo hộ Pháp tại Việt
Nam ký kết ngày 6-6-1884 dưới thời vua Kiến Phúc (trị vì 1883-1884), và
thu hồi chủ quyền quốc gia Việt Nam.
Đây là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của Việt Nam, rất hợp với
lòng dân, do chính quyền hợp pháp chính thống của người Việt Nam lúc đó
công bố, chứ không phải do một đảng phái nào đơn phương quyết định. Bản
tuyên ngôn nầy hoàn toàn do người Việt soạn thảo, không nhờ người ngoại
quốc soạn giùm và không vay mượn ý tưởng ngoại lai. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb. Non Nước, 2014.)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét