Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài “Thơ như một phương
tiện để giải hoặc và thanh tẩy,” viết năm 2004, nhà thơ Nguyễn Hoàng
Tranh (qua Úc từ năm 14 tuổi) tâm sự:
“Cho đến bây giờ, tất cả những bài thơ của tôi đều được viết bằng tiếng Việt. Rất nhiều bạn bè tôi hỏi tại sao tôi không làm thơ bằng tiếng Anh. Câu trả lời của tôi là: ‘Vâng, một ngày nào đó trong tương lai tôi sẽ viết bằng tiếng Anh. Nhưng ở thời điểm hiện tại này, tôi cần phải giải quyết rất nhiều chuyện thuộc về quá khứ Việt Nam của tôi, và điều này cần ngôn ngữ Việt.’” (1)
Lời tâm sự ấy nêu lên hai ám ảnh chính không những đối với anh mà còn đối với mọi người cầm bút lưu vong nói chung: ngôn ngữ và quá khứ.
Có thể nói, với các cây bút lưu vong, không những chỉ có quê hương hay quá khứ giằng kéo mà cả ngôn ngữ cũng có sức giằng kéo mãnh liệt. Czeslaw Milosz xem ngôn ngữ như là quê hương, thậm chí, quê hương duy nhất của người lưu vong (2). Cho đến nay, hầu hết các cây bút người Việt thuộc thế hệ thứ nhất và một phần các cây bút thuộc thế hệ 1.5 ở hải ngoại đều trung thành với tiếng Việt.
“Cho đến bây giờ, tất cả những bài thơ của tôi đều được viết bằng tiếng Việt. Rất nhiều bạn bè tôi hỏi tại sao tôi không làm thơ bằng tiếng Anh. Câu trả lời của tôi là: ‘Vâng, một ngày nào đó trong tương lai tôi sẽ viết bằng tiếng Anh. Nhưng ở thời điểm hiện tại này, tôi cần phải giải quyết rất nhiều chuyện thuộc về quá khứ Việt Nam của tôi, và điều này cần ngôn ngữ Việt.’” (1)
Lời tâm sự ấy nêu lên hai ám ảnh chính không những đối với anh mà còn đối với mọi người cầm bút lưu vong nói chung: ngôn ngữ và quá khứ.
Có thể nói, với các cây bút lưu vong, không những chỉ có quê hương hay quá khứ giằng kéo mà cả ngôn ngữ cũng có sức giằng kéo mãnh liệt. Czeslaw Milosz xem ngôn ngữ như là quê hương, thậm chí, quê hương duy nhất của người lưu vong (2). Cho đến nay, hầu hết các cây bút người Việt thuộc thế hệ thứ nhất và một phần các cây bút thuộc thế hệ 1.5 ở hải ngoại đều trung thành với tiếng Việt.
Cũng dễ hiểu. Trong cuốn Alien Tongues: Bilingual Russian Writers of
the “First” Emigration, từ kinh nghiệm của các nhà văn Nga lưu vong sang
Âu Châu vào đầu thế kỷ 20, Elizabeth Klosty Beaujour nhận thấy: Thứ
nhất, tuyệt đại đa số vẫn viết bằng tiếng Nga; thứ hai, trong số những
người viết song ngữ, chỉ có vài ba người thực sự thành công ở tầm quốc
tế (Elsa Triolet và Vladimir Nabokov); thứ ba, với hầu hết những người
viết song ngữ, việc lựa chọn ngôn ngữ lúc sáng tác là một lựa chọn đầy
dằn vặt và đau đớn, thậm chí, với Elsa Triolet, là một cơn bệnh hoặc một
sự phản bội (3).
Không có gì đáng ngạc nhiên khi Czeslaw Milosz, giải Nobel văn chương năm 1980, dù rất giỏi tiếng Anh, từng là dịch giả nổi tiếng, vẫn chỉ làm thơ bằng tiếng Ba Lan và để người khác dịch chúng sang tiếng Anh (4). Joseph Brodsky, nhà thơ Nga đoạt giải Nobel năm 1987, mặc dù sống ở Mỹ khá lâu, khi viết tiểu luận, chọn tiếng Anh, nhưng khi làm thơ, ông vẫn thường làm thơ bằng tiếng Nga (5). Jaime Manrique, một tác giả Colombia, sống ở New York trên ba mươi năm, cũng vậy: ông viết tiểu thuyết, hồi ký và tiểu luận bằng tiếng Anh nhưng khi làm thơ, vẫn làm thơ bằng tiếng Tây Ban Nha (6). Roman Jakobson (1896-1982), một nhà ngôn ngữ học và lý thuyết gia văn học kiệt xuất người Nga, sống ở Mỹ từ năm 1945, biết cả thảy 16 ngoại ngữ, nhưng bạn bè ông thường nói đùa: Jakokson “nói tiếng Nga bằng 16 ngôn ngữ khác nhau” (7): Chúng ta không chọn ngôn ngữ. Ngôn ngữ chọn chúng ta.
Có điều, tiếng Việt của những người sống giữa hai ngôn ngữ, hai văn hóa và hai quốc gia, dù muốn hay không, cũng dần dần đổi khác. Về phương diện xã hội, người ta thường nhìn những sự đổi khác ấy một cách tiêu cực như một quá trình rơi rụng và mai một. Tuy nhiên, về phương diện văn học, những sự đổi khác ấy thường diễn ra một cách tích cực: Trong môi trường song ngữ hoặc đa ngữ, tiếng Việt ở hải ngoại không ngừng được cọ xát để trở thành chặt chẽ và sắc cạnh hơn, cuối cùng, có thể tiếp máu cho một thân thể quá già nua và yếu ớt ở quê nhà. Già nua và yếu ớt chủ yếu đến từ sự khép kín của xã hội và đặc biệt từ các âm mưu chính trị hóa ngôn ngữ để giữ sự độc quyền về tư tưởng của giới cầm quyền.
Ở đây, có thể xem văn học lưu vong như một nền văn học nhỏ/phụ (minor literature), hiểu theo nghĩa của Gilles Deleuze và Félix Guattari: Ðó là một nền văn học thoát thai từ một ngôn ngữ lớn (trong trường hợp của Kafka, một người Séc gốc Do Thái viết bằng tiếng Ðức, đó là tiếng Ðức; trong trường hợp của chúng ta, đó là tiếng Việt ở Việt Nam) với ba đặc điểm chính: giải lãnh thổ hóa, ám ảnh về chính trị và ý thức tập thể. Nền văn học ấy tự đổi khác bằng chiến lược viết như những kẻ sử dụng đa ngữ, biến cái ngôn ngữ quen thuộc thành xa lạ, và không ngại vượt qua mọi quy ước và quy phạm có sẵn để đi đến tận cùng tham vọng cách tân (8).
Ngoài vấn đề văn học nhỏ/văn học lớn theo cách nhìn của Deleuze và Guattari, những sự đổi khác của ngôn ngữ và văn học Việt Nam lưu vong, còn xuất phát từ một nguyên nhân nữa: sự cọ xát. Trong lãnh vực văn hóa, cọ xát là điều kiện của sáng tạo. Nhờ thường xuyên cọ sát với các nền văn hóa khác, văn hóa Tây phương không ngừng phát triển và đổi mới. Riêng ở Việt Nam, các cuộc cọ sát với văn hóa Trung Hoa, Chiêm Thành và Pháp đều để lại những dấu ấn lớn.
Carrie Noland và Barrett Watten xem những sự cọ xát xuyên ngôn ngữ, xuyên quốc gia, xuyên sắc tộc và xuyên thẩm mỹ ấy là những điều kiện thuận lợi để làm nảy nở tinh thần tiền vệ (avant-garde); trong ý nghĩa ấy, họ cho lưu vong chính là động cơ của tinh thần tiền vệ (9).
Raymond Williams cũng từng có ý kiến tương tự khi cho các phong trào tiền vệ nổi lên trong các xã hội hiện đại từ hiện tượng lưu đày trong tâm hồn (internal exile) và hiện tượng di dân xuyên quốc gia: Ông xem xu hướng quay về với ngôn ngữ (turn to language) vốn là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của văn học và văn hóa Tây phương trong thế kỷ 20 chủ yếu nảy sinh từ các điểm giao thoa hay biên giới giữa các ngôn ngữ (10).
Ðể minh chứng cho các luận điểm ấy, Noland và Watten nhắc đến một số tên tuổi tiền vệ nổi bật nhất tại Pháp trong nửa đầu thế kỷ 20: Tristan Tzara, một trong những thủ lĩnh của phong trào Dada vào năm 1916, và Isidore Isou, người đề xướng một phong trào tiền vệ khác vào năm 1947, đều là người Romania sống lưu vong ở Pháp (11).
Dĩ nhiên, kinh nghiệm lưu vong chỉ là một trong những điều kiện của tinh thần tiền vệ. Như tôi đã phân tích trong bài “Sống và viết như những người lưu vong” (12), rất nhiều người cầm bút Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhất thường đắm chìm trong những hồi tưởng hoài niệm, chỉ sống với ký ức; với họ, viết chỉ như một hành động níu giữ và tái cấu trúc ký ức. May, phần lớn giới cầm bút Việt Nam trẻ thì khác. Dù không thoát hẳn những ám ảnh của quá khứ, một phần trong con người của họ vẫn thuộc về hiện tại để có thể cảm nghiệm được thân phận ở-giữa của mình, từ đó, khao khát đổi mới, hoặc nếu không đổi mới được thì ít nhất cũng viết khác như câu khẩu hiệu của nhà thơ Mỹ Ron Silliman: “Nếu không làm Mới được thì hãy làm cho Khác.” (“Make it Different, if not New”) (13).
Tìm hiểu những cái khác ấy là một điều thú vị, tuy nhiên, nó quá phức tạp. Một lúc nào đó, có dịp, chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ (14).
Không có gì đáng ngạc nhiên khi Czeslaw Milosz, giải Nobel văn chương năm 1980, dù rất giỏi tiếng Anh, từng là dịch giả nổi tiếng, vẫn chỉ làm thơ bằng tiếng Ba Lan và để người khác dịch chúng sang tiếng Anh (4). Joseph Brodsky, nhà thơ Nga đoạt giải Nobel năm 1987, mặc dù sống ở Mỹ khá lâu, khi viết tiểu luận, chọn tiếng Anh, nhưng khi làm thơ, ông vẫn thường làm thơ bằng tiếng Nga (5). Jaime Manrique, một tác giả Colombia, sống ở New York trên ba mươi năm, cũng vậy: ông viết tiểu thuyết, hồi ký và tiểu luận bằng tiếng Anh nhưng khi làm thơ, vẫn làm thơ bằng tiếng Tây Ban Nha (6). Roman Jakobson (1896-1982), một nhà ngôn ngữ học và lý thuyết gia văn học kiệt xuất người Nga, sống ở Mỹ từ năm 1945, biết cả thảy 16 ngoại ngữ, nhưng bạn bè ông thường nói đùa: Jakokson “nói tiếng Nga bằng 16 ngôn ngữ khác nhau” (7): Chúng ta không chọn ngôn ngữ. Ngôn ngữ chọn chúng ta.
Có điều, tiếng Việt của những người sống giữa hai ngôn ngữ, hai văn hóa và hai quốc gia, dù muốn hay không, cũng dần dần đổi khác. Về phương diện xã hội, người ta thường nhìn những sự đổi khác ấy một cách tiêu cực như một quá trình rơi rụng và mai một. Tuy nhiên, về phương diện văn học, những sự đổi khác ấy thường diễn ra một cách tích cực: Trong môi trường song ngữ hoặc đa ngữ, tiếng Việt ở hải ngoại không ngừng được cọ xát để trở thành chặt chẽ và sắc cạnh hơn, cuối cùng, có thể tiếp máu cho một thân thể quá già nua và yếu ớt ở quê nhà. Già nua và yếu ớt chủ yếu đến từ sự khép kín của xã hội và đặc biệt từ các âm mưu chính trị hóa ngôn ngữ để giữ sự độc quyền về tư tưởng của giới cầm quyền.
Ở đây, có thể xem văn học lưu vong như một nền văn học nhỏ/phụ (minor literature), hiểu theo nghĩa của Gilles Deleuze và Félix Guattari: Ðó là một nền văn học thoát thai từ một ngôn ngữ lớn (trong trường hợp của Kafka, một người Séc gốc Do Thái viết bằng tiếng Ðức, đó là tiếng Ðức; trong trường hợp của chúng ta, đó là tiếng Việt ở Việt Nam) với ba đặc điểm chính: giải lãnh thổ hóa, ám ảnh về chính trị và ý thức tập thể. Nền văn học ấy tự đổi khác bằng chiến lược viết như những kẻ sử dụng đa ngữ, biến cái ngôn ngữ quen thuộc thành xa lạ, và không ngại vượt qua mọi quy ước và quy phạm có sẵn để đi đến tận cùng tham vọng cách tân (8).
Ngoài vấn đề văn học nhỏ/văn học lớn theo cách nhìn của Deleuze và Guattari, những sự đổi khác của ngôn ngữ và văn học Việt Nam lưu vong, còn xuất phát từ một nguyên nhân nữa: sự cọ xát. Trong lãnh vực văn hóa, cọ xát là điều kiện của sáng tạo. Nhờ thường xuyên cọ sát với các nền văn hóa khác, văn hóa Tây phương không ngừng phát triển và đổi mới. Riêng ở Việt Nam, các cuộc cọ sát với văn hóa Trung Hoa, Chiêm Thành và Pháp đều để lại những dấu ấn lớn.
Carrie Noland và Barrett Watten xem những sự cọ xát xuyên ngôn ngữ, xuyên quốc gia, xuyên sắc tộc và xuyên thẩm mỹ ấy là những điều kiện thuận lợi để làm nảy nở tinh thần tiền vệ (avant-garde); trong ý nghĩa ấy, họ cho lưu vong chính là động cơ của tinh thần tiền vệ (9).
Raymond Williams cũng từng có ý kiến tương tự khi cho các phong trào tiền vệ nổi lên trong các xã hội hiện đại từ hiện tượng lưu đày trong tâm hồn (internal exile) và hiện tượng di dân xuyên quốc gia: Ông xem xu hướng quay về với ngôn ngữ (turn to language) vốn là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của văn học và văn hóa Tây phương trong thế kỷ 20 chủ yếu nảy sinh từ các điểm giao thoa hay biên giới giữa các ngôn ngữ (10).
Ðể minh chứng cho các luận điểm ấy, Noland và Watten nhắc đến một số tên tuổi tiền vệ nổi bật nhất tại Pháp trong nửa đầu thế kỷ 20: Tristan Tzara, một trong những thủ lĩnh của phong trào Dada vào năm 1916, và Isidore Isou, người đề xướng một phong trào tiền vệ khác vào năm 1947, đều là người Romania sống lưu vong ở Pháp (11).
Dĩ nhiên, kinh nghiệm lưu vong chỉ là một trong những điều kiện của tinh thần tiền vệ. Như tôi đã phân tích trong bài “Sống và viết như những người lưu vong” (12), rất nhiều người cầm bút Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhất thường đắm chìm trong những hồi tưởng hoài niệm, chỉ sống với ký ức; với họ, viết chỉ như một hành động níu giữ và tái cấu trúc ký ức. May, phần lớn giới cầm bút Việt Nam trẻ thì khác. Dù không thoát hẳn những ám ảnh của quá khứ, một phần trong con người của họ vẫn thuộc về hiện tại để có thể cảm nghiệm được thân phận ở-giữa của mình, từ đó, khao khát đổi mới, hoặc nếu không đổi mới được thì ít nhất cũng viết khác như câu khẩu hiệu của nhà thơ Mỹ Ron Silliman: “Nếu không làm Mới được thì hãy làm cho Khác.” (“Make it Different, if not New”) (13).
Tìm hiểu những cái khác ấy là một điều thú vị, tuy nhiên, nó quá phức tạp. Một lúc nào đó, có dịp, chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ (14).
Nguyễn Hưng Quốc
___________________________________________________________________
Chú thích:___________________________________________________________________
1. [1] http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=2015
2. “Language is the only homeland,” dẫn theo Paule Marshall,
“From the poets in the kitchen,” The New York
Times:http://www.nytimes.com/1983/01/09/books/from-the-poets-in-the-kitchen.html?pagewanted=all
3. Elizabeth Klosty Beaujour (1989), Alien Tongues: Bilingual
Russian Writers of the “First” Emigration, Ithaca: Cornell University
Press, tr. 40-1.
4. Trừ mấy năm cuối đời.
5. Chỉ về sau, Brodsky mới dần dần tự dịch thơ mình, và những năm cuối đời, bắt đầu làm thơ thẳng bằng tiếng Anh.
6. Edith Grossman (2010), Why Translation Matters, New Haven: Yale University Press, tr. 100.
7. Elizabeth Klosty Beaujour (1989), sđd., tr. 18.
8. Gilles Deleuze và Félix Guattari (1986), Kafka: Towards a
Minor Literature(Dana Polan dịch), Minneapolis: University of Minnesota
Press. Tôi có tóm tắt và phân tích quan điểm của Deleuze và Guattari
trong cuốn Văn học Việt Nam thời toàn cầu hóa (Văn Mới, California,
2010), tr. 60-65.
9. Carrie Noland & Barrett Watten (biên tập) (2009),
Diasporic Avant-gardes: Experimental Poetics and Cultural Displacement,
New York: Palgrave Macmillan, tr. 4.
10. Dẫn theo Carrie Noland & Barrett Vatten (2009), sđd., tr. 15.
11. Như trên, tr. 3.
12. In trên Việt số 2 (1998), tr. 5-10; sau, in lại với một số
sửa chữa trong cuốn Văn học Việt Nam từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại, nxb
Văn Nghệ, California, năm 2000, tr. 227-234.
13. Nerys Williams (2011), Contemporary Poetry, Edinburgh: Edinburgh University Press, tr. 3.
14. Tôi đã phân tích một số cái khác ấy trong cuốn Văn Học Việt
Nam tại Úc: chính trị và thi pháp của lưu vong do Tiền Vệ xuất bản và
được Người Việt tái bản vào năm 2014. Cuốn sách này có thể đặt mua trên
Amazon.com.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét