Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. |
Chẵn ba thập kỷ sau thời “Đổi mới” 1986, đòi hỏi “cải cách hay là chết” ở Việt Nam bùng nổ hơn bao giờ hết.
Áp lực nội bộ ‘cải cách lần 2’
Thành tựu cá nhân không thể cứu vãn chế độ. Ngay sau Đại hội XII, bất
chấp thắng lợi huy hoàng của Tổng Bí thư Trọng “đã loại được một nhà
độc tài”, nhân vật hồn nhiên tuên bố “Tôi bất ngờ!” trước thành tích tái
cử đang đứng khựng trước ngã ba đường: cho dù ông là nhân tố vượt trội
để “giữ gìn đoàn kết trong đảng” vào thời gian này, tình đoàn kết đó sẽ
chẳng có một chút giá trị nào nếu tự thân đảng không cải cách.
Quá nhiều yêu cầu và đòi hỏi về “cải cách lần 2” đang bùng nổ từ lớp
người thân cận nhất của đảng là giới cán bộ lão thành, tướng lĩnh về hưu
và cả một số quan chức vừa mãn nhiệm hoặc còn đương nhiệm.
“Không cải cách thì chỉ có chết!” - giờ đây rất nhiều người thốt lên như thế.
Kinh tế quyết định chính trị - những nhà lý thuyết Mácxit như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thấm nhuần điều này hơn bất cứ ai.
Khác hẳn thời “hoàng kim” của những năm 2006-2007, chính phủ mới 2016
lại phải kế thừa di sản ghê rợn từ thời cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
cùng chế độ đảng trị: tham nhũng kinh hoàng, kinh tế lụn bại và bị trói
chặt bởi Trung Quốc, nợ công và nợ xấu ngập đầu, phản kháng xã hội tràn
ngập cùng một nền đạo đức tiệm cận đáy, và quá nhiều quyền con người bị
chính thể chà đạp tận bùn đen.
Tất nhiên Tổng Bí thư Trọng có quyền bảo lưu quan điểm “đổi mới chính
trị không phải là thay đổi bản chất chế độ”, nhưng nếu khăng khăng
không chịu cải cách, ông Trọng làm thế nào để có tiền trả cho đội ngũ
công chức viên chức lên đến 3 triệu người cùng hàng triệu quân nhân
trong lực lượng vũ trang của ông?
Chỉ cắm đầu thu thuế và tăng thuế bổ đầu dân?
Phản kháng và biến loạn xã hội sẽ là tất yếu, như đã từng tất yếu
trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Dập thuế liên tục với cường độ
ngày càng tăng là phương thức nhanh nhất để tự sát chính trị, hoàn toàn
không phải là cách để duy trì một chế độ trường tồn và trên hết là “chủ
nghĩa xã hội hoàn thiện” theo đúng mong muốn của đảng.
Tăng thuế, in tiền hay tiếp tục vay nợ?
Bài toán ngân sách và tài chính của Việt Nam là quá phức tạp, nhưng
lại rất dễ giải quyết: hoặc là in tiền, in thật nhiều tiền để lấp đầy
những vực thẳm ngày càng bị nạn chi tiêu vô tội vạ, lãng phí và tham
nhũng đào sâu thêm; hoặc vay mượn nước ngoài.
Nhưng in tiền tất sẽ dẫn đến lạm phát. Đã có những chuyên gia bắt đầu
cảnh báo về tỷ lệ lạm phát năm 2016 có thể trở lại như năm 2011, tức
vọt đến 20%. Quốc hội lại đang tỉnh giấc đòi chính phủ phải “trả lại”
cho cơ quan này quyền xem xét và quyết định ngân sách. Do vậy khả năng
in tiền vô tội vạ là khó xảy ra.
Nguồn tài chính dồi dào và đỡ biến loạn hơn nhiều đến từ các định chế
tài chính quốc tế và cũng là những chủ nợ lớn nhất của ngân sách Việt
Nam: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát
triển Á châu và những quốc gia giàu có như Nhật Bản, Hoa Kỳ.
Nhưng vào tháng 3/2016, Tổng giám đốc IMF Christine Lagarde thăm Việt
Nam đã lần đầu tiên đưa ra khuyến nghị “Việt Nam cần cải cách lần 2”.
Dù IMF không nói rõ ra, nhưng giới lãnh đạo Việt Nam tất ngầm hiểu
nhiều khuyến nghị, được đưa ra trong nhiều lần, của WB và IMFvề những
nội dung thiết yếu cần cải cách kinh tế và cải cách thể chế: bình đẳng
giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, tăng độ minh bạch
thị trường tài chính và minh bạch ngân sách, cải cách luật theo hướng
dân chủ hơn, phải chống tham nhũng một cách có hiệu quả, chấp nhận Công
đoàn độc lập và Xã hội dân sự. Kể cả tự do lập hội và tự do báo chí…
Sang tháng 4/2016, Victoria Kwa Kwa - nữ đại diện của WB đã chính
thức nêu 3 khuyến nghị cụ thể đối với Tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
liên quan đến 3 vấn đề: Biến đổi khí hậu, doanh nghiệp tư nhân và chống
tham nhũng.
Vào tháng 12 năm ngoái, chính bà Victoria Kwa Kwa đã đặt cho Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng một câu hỏi chết người “Việt Nam lấy đâu ra nguồn
lực để phát triển?”, sau khi nghe báo cáo tràng giang đại hải của ông
Dũng về “phấn đấu tăng trưởng đến năm 2020 và những năm sau”. Ngay sau
đó, WB đã lần đầu tiên trao cho chính phủ Việt Nam một bản khuyến nghị 7
điểm, với khuyến nghị đầu tiên là hết sức đặc biệt: Việt Nam phải nhanh
chóng ban hành Luật Lập hội.
Giờ đây, Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức rời khỏi chính trường. Sau Đại
hội XII, điểm khác biệt cơ bản của Bộ Chính trị mới với dàn nhân sự cũ
là tỷ lệ nhân vật nhận thức “không còn cách nào ngoài cải cách” đã tăng
lên đáng kể.
Có khoảng 8 - 9 gương mặt trong Bộ Chính trị mới lại là những người
làm chuyên môn ngành nghề và có thể mang hơi hướng “kỹ trị”, dù rằng từ
ngữ này vẫn còn quá xa xỉ nếu được gán ghép cho lớp chính khách còn bị
“cầm tù” bởi thói quen cai trị quá tối tăm ở Việt Nam.
Có nổ ra cuộc chiến phủ nhận quyền lực?
Trong lớp chính khách “kỹ trị”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là nhân
vật sẽ phải chịu “tổn thọ” nhiều nhất bởi di sản kiệt quệ từ thời thủ
tướng cũ và quá nhiều vấn nạn cấp bách quốc gia cần phải xử lý ngay. Nếu
như trước đây, thiên hạ cứ nhè Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để đổ hết
“trách nhiệm điều hành yếu kém” cho ông ta, thì tương lai rất cận kề
cũng sẽ tương ứng đối với Thủ tướng Phúc nếu chính phủ mới không có bất
cứ cải cách nào.
“Kỹ trị” chủ yếu thể hiện bên chính phủ - địa chỉ phải hành pháp chứ
không phải chỉ tay năm ngón như bên đảng. Nhân vật thứ hai có đầu óc
quản lý là Vương Đình Huệ - từng một thời “ngồi chơi xơi nước” ở Ban
Kinh tế trung ương, nhưng lại có thâm niên giữ chức bộ trưởng tài chính
trước đây nên càng thấu hiểu nỗi khổ của ngân sách sẽ đến mức nào nếu
rỗng ruột.
Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam cũng là những người có chuyên môn nhưng
chưa có môi trường để thoát lộ. Đặc biệt, Phạm Bình Minh được đào tạo ở
Mỹ và có lẽ không quên quá nhanh những gì ông đã học về làm thế nào để
cải cách khu vực hành chính công.
Những nhân vật khác như Hoàng Trung Hải, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn
Bình… hay cả Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Thị Kim Ngân, Võ Văn Thưởng cũng
có thể được xếp vào “phái kỹ trị”. “Trung thành chừng mực” với ý thức hệ
xã hội chủ nghĩa, song sẽ chẳng có đức tin nào tồn tại quá một tuần nếu
không có gì nhét vào bụng trong ba ngày.
Chính tầng lớp “kỹ trị” ấy, chứ không phải các cơ quan đảng, mới phải
đau đầu và cực khổ nhất để tìm cách vay tiền và tìm mọi cách giữ cho
con tàu chế độ khỏi bị lật đắm. Không còn cách nào khác, chỉ có cải cách
mới mang lại tiền bạc và “sự tồn vong của chế độ”.
Thời gian và tình thế sẽ dẫn đến một hệ lụy khó tránh: nếu khăng
khăng không muốn cải cách hoặc chỉ cải cách hết sức nửa vời, Tổng Bí thư
Trọng sẽ phải đối mặt với ít nhất một nửa Bộ Chính trị mới. Việc trì
hoãn càng lâu hành động cải cách, đặc biệt là cải cách để làm sao vay
được tiền và tốt hơn nữa là được giảm nợ, xóa nợ theo yêu cầu của WB và
IMF, sẽ càng khiến nảy sinh tâm lý bất mãn và dẫn đến phản ứng công khai
ngay trong nội bộ Bộ Chính trị.
Đã có bài học nhãn tiền. Trong hai năm 2012 và 2013, một Miến Điện
cải cách thể chế và cải cách nhân quyền đã được Câu lạc bộ Paris và hàng
loạt quốc gia tên tuổi như Đức, Nhật, Na Uy, Pháp… xóa khoản nợ đến 6
tỷ USD.
Còn ngay trong năm 2016, Việt Nam phải trả đến 7 tỷ USD cho các khoản
vay quốc tế. Những năm sau còn phải trả nợ nhiều hơn. Hãy nhớ lại cái
cách trần tình rất thành thực của Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang
Vinh vào cuối năm 2015 trước khi mãn nhiệm: ngân sách trung ương chỉ
còn 45.000 tỷ đồng. Trả nợ xong thì không còn tiền để đầu tư.
Cải cách, cải cách và cải cách - đó không chỉ là một cuộc chiến về hệ
tư tưởng mà còn có thể kéo theo cuộc chiến quyền lực và phủ nhận quyền
lực ngay trong lòng đảng, dù Tổng Bbí thư Nguyễn Phú Trọng “sắp nghỉ”
hay còn muốn tại vị đến 5 năm nữa.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét