(Lê Văn Tâm – VNN)
*Lịch
sử nước nhà đã ghi biết bao lần dân tộc ta chiến thắng giặc ngoại xâm
từ phương Bắc. Chiến thắng sau cùng và oanh liệt nhất chính là lần Quang
Trung Hoàng Đế đuổi giặc Mãn Thanh có quân số gấp ba lần quân ta ra
khỏi bờ cõi nước nhà, trong vòng một tuần lễ. Nhắc đến thiên tài quân sự
Quang Trung Nguyễn Huệ là phải nhắc đến chiến công lẫy lừng năm 1789
này của dân tộc. Nhân kỷ niệm 210 năm chiến thắng Đống Đa, chúng ta hãy
cùng nhau ôn lại diễn tiến của chiến thắng hiển hách này trong lịch sử
Việt Nam và quân sử thế giới.
*
Vào
cuối thế kỷ thứ 18, đất nước Việt Nam bị nạn qua phân ròng rã mấy thập
niên bởi cuộc tranh chấp của hai dòng chúa Trịnh -Nguyễn thời Lê mạt.
Vua bất lực, chúa lộng quyền, dân tình khốn khổ. Năm 1771, tại đất Tây
Sơn thuộc tỉnh Quy Nhơn có ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn
Huệ dấy nghĩa chống Trương Phúc Loan lộng hành, hà khắc ở Phú Xuân, dân
Quy Nhơn cùng nhiều sắc dân thiểu số và cả thương nhân người Hoa theo
rất đông.
Đến
năm 1773, quân binh Tây Sơn bắt đầu đụng những trận lớn với quân chúa
Trịnh từ đàng ngoài và quân chúa Nguyễn từ đàng trong. Chúa Nguyễn bị
quân đàng ngoài đánh bại, bỏ Phú Xuân năm 1775, chạy vào Gia Định. Nhà
Tây Sơn hoãn binh với quân chúa Trịnh để rảnh tay đối phó mặt Nam.
Nguyễn Huệ đã nhiều lần kéo chiến thuyền và thuỷ quân vào Nam, với sở
trường phục binh và kết thúc chiến trường chớp nhoáng, những chiến thắng
của Nguyễn Huệ đã bao phen đẩy Nguyễn Ánh chạy dài ra các đảo nhỏ trong
vịnh Thái Lan. Và riêng trận Rạch Gầm – Xoài Mút, đã đánh tan 5 vạn
quân Xiêm chực thôn tính Việt Nam và Chân Lạp qua lời cầu viện của
Nguyễn Ánh.
Trong
khi đó, cả vua lẫn chúa ngày càng suy nhược ở Bắc Hà, quan lại phân hóa
kết bè tụ đảng, kẻ thì bó tay về ẩn dật, kẻ chỉ lo tranh đoạt quyền
hành bổng lộc, tình hình Thăng Long lúc đó cực kỳ rối loạn với nạn kiêu
binh Thanh Nghệ, dân chúng đói khổ ta thán khôn xiết. Năm 1786, Nguyễn
Huệ kéo quân Bắc tiến, giải phóng Phú Xuân sau năm ngày huyết chiến, rồi
trương cờ “Phù Lê Diệt Trịnh”, kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, dựng
lại ngai vua cho Lê Hiến Tôn, được vua Lê gả Ngọc Hân Công chúa. Lê Hiến
Tôn băng hà, Lê Chiêu Thống nối ngôi. Nguyễn Huệ kéo quân về lại Phú
Xuân.
Năm
1788, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai, theo sát việc Vũ văn Nhậm
diệt Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành. Lần này, vua Lê bôn đào về Lam Sơn.
Không được hậu thuẫn dân chúng ở vùng đất dấy nghiệp khai triều của nhà
Lê, Lê Chiêu Thống chạy lên Lạng Sơn rồi phái sứ giả sang Tàu, cầu cứu
nhà Mãn Thanh. Bắt được cơ hội này sau nhiều năm dòm ngó, Thanh Càn Long
liền xuống chiếu cho Tôn Sĩ Nghị, lúc đó là Tổng đốc Lưỡng Quảng, cùng
với Sầm Nghi Đống ở Điền Châu và các đạo binh Vân Nam, Quý Châu tập họp
thành một đạo quân 29 vạn lấy cớ giúp Lê Chiêu Thống để cướp nước ta.
*
Ngày
25 tháng 11 năm 1788, quân Thanh vượt biên giới bằng ba ngã: Đạo quân
Vân Nam – Quý Châu tiến vào Tuyên Quang, Sầm Nghi Đống dắt quân Điền
Châu vào ngã Cao Bằng, và Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh dẫn đại quân
tràn qua Lạng Sơn. Thanh Càn Long vạch chiến thuật quy mô ba mũi tiến
đánh Thăng Long, với chiến lược thận trọng là dùng Lê Chiêu Thống và đám
tong vong làm bình phong chính trị cho việc thiết lập một chế độ cắt
đất để cai trị lâu dài. Đối đầu với việc chuẩn bị kỹ lưỡng và đoàn quân
hung hãn này, cả Bắc Hà chỉ có một vạn quân bảo vệ, dưới quyền các tướng
Tây Sơn là Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Dụng
và Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Huệ đã về Phú Xuân từ lúc giải quyết xong vấn đề
Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm. Vì thế, quân Mãn Thanh tràn chiếm Bắc
Hà trong thế chẻ tre, đến Bắc Ninh thì gặp Lê Chiêu Thống ra đón.
Ngô
Thì Nhậm đề nghị rút quân về Tam Điệp, tức đèo Ba Dội thuộc tỉnh Thanh
Hóa để bảo toàn lực lượng và nuôi kiêu chí của giặc. Quả nhiên, Tôn Sĩ
Nghị cùng binh tướng không thấy sức chống trả nào của Tây Sơn nên khinh
thường cả kẻ rước voi là Lê Chiêu Thống, và quên mất chiến lược của
Thanh Càn Long vạch ra nên chỉ lỏng lẻo phân bố các đạo quân trấn thủ
các thành mặt Nam Thăng Long, và để cho binh sĩ mặc tình hà hiếp, cưỡng
bức dân Nam. Phần Lê Chiêu Thống thì sau khi thụ lãnh sắc phong vua
Thanh ban cho hôm 17.12.1788, bỏ niên hiệu Chiêu Thống để dùng niên hiệu
Càn Long, ngày ngày sang dinh tướng giặc nhận lệnh, mặc nhiên coi nước
ta như một châu huyện của Tàu và chỉ lo giải quyết các mối tư thù thuở
trước, không lo việc an dân hay can gián giặc.
Từ
Phú Xuân, khi nhận được tin báo của Ngô Thì Nhậm, Bắc Bình Vương Nguyễn
Huệ đăng đàn tế cáo trời đất tại Bàn Sơn, lên ngôi Quang Trung Hoàng
Đế, chính thống trở thành người lãnh đạo dân tộc, dẫn ba vạn quân rời
Phú Xuân ngày 26.12.1888. Bốn hôm sau, binh Tây Sơn đã ra tới Nghệ An,
và chỉ trong vòng một tuần sau đó, vua Quang Trung đã tập họp được tổng
cộng mười vạn binh sĩ và khoảng một trăm thớt voi. So với quân Mãn Thanh
thì lực lượng Tây Sơn yếu hơn đến mấy lần về quân số lẫn vũ khí, chỉ
được ưu thế là có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, chuyển động quy
củ, người lãnh đạo là một thiên tài quân sự nhiều mưu lược, và quan
trọng nhất là được hậu thuẫn của dân chúng quyết tâm đánh đuổi ngoại
xâm, tức là có chính nghĩa. Tại Nghệ An, để giặc thêm kiêu căng và bớt
đề phòng, vua Quang Trung phái người sang đề nghị với Tôn Sĩ Nghị là đôi
bên cùng bãi binh. Quân Mãn Thanh lại càng yên chí rằng binh Nam khiếp
sợ oai trời, càng mặc tình hà hiếp lê dân, vui chơi, cướp bóc.
Ngày
15.01.1789, nhằm 20 tháng Chạp năm Mậu Thân, binh Tây Sơn đến Tam Điệp
bằng chiến thuật chuyển quân thần tốc, vừa di hành vừa tập thế trận cho
các tân binh mới tuyển ở Nghệ An. Vua Quang Trung ngợi khen mưu rút binh
của Ngô Thì Nhậm rồi truyền hịch cho tướng sĩ: “Chúng nó sang phen này
ra đây ta đã là mua lấy cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này, thân coi
việc binh, đã định mẹo rồi, chẳng qua mười ngày là đuổi xong giặc”. Sau
đó, Ngài truyền lệnh cho binh tướng Phú Xuân, Nghệ An hợp cùng binh
tướng của Đại Tư Mã Ngô Văn Sở cùng ăn Tết sớm, hẹn nhau cùng ăn mừng
Khai Hạ tại Thăng Long vào ngày mùng bảy Tết. Kế hoạch của Ngài là sử
dụng sở trường của binh Tây Sơn, tấn công chớp nhoáng khi quân Thanh vui
chơi ngày Tết và tướng Thanh còn đang mải mê tiệc yến, lại chủ quan
việc đợi ra Giêng tấn công vào Phú Xuân hơn là phòng thủ Thăng Long.
*
Vua Quang Trung chia quân làm 5 đạo, tấn công giặc từ ba hướng:
Hướng
chính, gồm đạo quân chủ lực, do chính vua Quang Trung điều động, tiên
phong là tướng Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, tấn công thẳng vào dãy thành
phòng thủ mặt Nam Thăng Long.
Hữu
quân gồm hai đạo thuỷ quân vượt đường biển, tiến vào cửa sông Lục Đầu.
Đạo thủy quân của Đô Đốc Tuyết sẽ tấn công đám quân tòng vong của Lê
Chiêu Thống, tiến chiếm Hải Dương rồi vượt bộ vào đánh mặt Đông thành
Thăng Long. Đạo thủy quân của Đô Đốc Lộc sẽ vượt bộ lên Phượng Nhỡn,
Lạng Giang, Yên Thế để khóa lương, ngăn viện, và chận đường lui binh của
giặc.
Tả
quân cũng gồm hai đạo quân, vượt đường núi, tấn công các thành trấn thủ
phía Tây Nam Thăng Long. Đạo quân tượng mã của Đô Đốc Bảo sẽ theo ngã
Sơn Minh, qua làng Đại Áng, hỗ trợ cho đạo quân chủ lực, tấn công thành
Ngọc Hồi.
Đạo
quân của Đô Đốc Long bọc theo ngã Chương Đức với nhiệm vụ thọc ngang
mặt Tây đánh đồn Khương Thượng, nơi cánh quân Điền Châu của Sầm Nghi
Đống trấn đóng, hỗ trợ cho đạo quân chủ lực giải quyết thành Đống Đa rồi
cùng các đạo quân khác tiến đánh ba mặt thành Thăng Long.
*
Đêm
trừ tịch Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân thần tốc, ba mặt
giáp công. Đụng trận đầu với giặc và đám tay sai Chiêu Thống tại Bến
Gián Khẩu, binh Tây Sơn tiêu diệt không chừa một mạng nên quân giặc ở Hà
Hồi và Ngọc Hồi vẫn tiếp tục uống rượu đón Xuân. Chừng nghe tiếng quân
Nam reo hò vang dội ngoài thành vào nửa đêm mùng ba Tết, quân Thanh thủ
Hà Hồi mở cửa thành dâng nộp vũ khí xin hàng. Đạo quân chủ lực hợp cùng
đạo quân của Đô Đốc Bảo tiến ra Ngọc Hồi vào mờ sáng mùng năm, gặp phải
sức cố thủ mãnh liệt của giặc Thanh, đạn trong thành bắn ra như mưa. Vua
Quang Trung cho lính ghép ván bện rơm tẩm nước, cứ ba người khiêng một
tấm, giắt dao ngắn xông lên đỡ đạn cho 20 lính mang khí giới theo sau,
đến sát mặt thành thì ngả ván tràn vào. Chính Ngài cởi voi đốc chiến,
quân giặc tan vỡ cấp kỳ, đạp nhau mà chạy tán loạn. Đây là chiến thắng
cam go nhất, lộ quân tiên phuông của Đại Tư Mã Ngô Văn Sở có đến tám
ngàn người hy sinh.
Cùng
lúc đó, đạo quân của Đô Đốc Long ở mặt Tây Nam đã chiếm Khương Thượng
rồi tiến như vũ bão sang công phá Đống Đa. Cánh quân Điền Châu của Sầm
Nghi Đống tan rã, Sầm Nghi Đống treo cổ tự ải. Hai đạo thuỷ quân của Đô
Đốc Tuyết và Đô Đốc Lộc thanh toán chớp nhoáng các vị trí chiến lược Hải
Dương, Phượng Nhỡn, Lạng Giang, Yên Thế rồi hỗ trợ đại quân đánh thẳng
vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nhận tin thất thủ liên tục từ sáng mùng ba
Tết, quá khiếp đảm trước sức công ba mặt của binh Tây Sơn nên mở cửa
thành, vượt cầu phao sông Hồng chạy lấy thân, vất cả ấn tín, mật chỉ.
Giặc Mãn Thanh tranh nhau chạy làm đứt cầu phao, xác nghẹt lòng sông.
Cánh
quân Quý Châu – Vân Nam của giặc vừa tới Sơn Tây, nghe tin chủ soái bỏ
chạy, các tướng Sầm Nghi Đống, Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long, Thượng Duy
Thăng đều tử trận, cũng tất tả tháo chạy. Dọc đường về còn bị phục kích,
chận đánh tơi bời bởi các lộ quân của Đô Đốc Lộc, qua biên giới sang
Tàu rồi mà vẫn chưa hết bàng hoàng.
Trưa mùng năm Tết Kỷ Dậu, Vua Quang Trung vào Thăng Long sớm hơn dự định đến hai ngày.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét