Ads 468x60px

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Chiến Thắng Đống Đa

(Lê Văn Tâm – VNN)
*Lịch sử nước nhà đã ghi biết bao lần dân tộc ta chiến thắng giặc ngoại xâm từ phương Bắc. Chiến thắng sau cùng và oanh liệt nhất chính là lần Quang Trung Hoàng Đế đuổi giặc Mãn Thanh có quân số gấp ba lần quân ta ra khỏi bờ cõi nước nhà, trong vòng một tuần lễ. Nhắc đến thiên tài quân sự Quang Trung Nguyễn Huệ là phải nhắc đến chiến công lẫy lừng năm 1789 này của dân tộc. Nhân kỷ niệm 210 năm chiến thắng Đống Đa, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại diễn tiến của chiến thắng hiển hách này trong lịch sử Việt Nam và quân sử thế giới.
*
Vào cuối thế kỷ thứ 18, đất nước Việt Nam bị nạn qua phân ròng rã mấy thập niên bởi cuộc tranh chấp của hai dòng chúa Trịnh -Nguyễn thời Lê mạt. Vua bất lực, chúa lộng quyền, dân tình khốn khổ. Năm 1771, tại đất Tây Sơn thuộc tỉnh Quy Nhơn có ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ dấy nghĩa chống Trương Phúc Loan lộng hành, hà khắc ở Phú Xuân, dân Quy Nhơn cùng nhiều sắc dân thiểu số và cả thương nhân người Hoa theo rất đông.
Đến năm 1773, quân binh Tây Sơn bắt đầu đụng những trận lớn với quân chúa Trịnh từ đàng ngoài và quân chúa Nguyễn từ đàng trong. Chúa Nguyễn bị quân đàng ngoài đánh bại, bỏ Phú Xuân năm 1775, chạy vào Gia Định. Nhà Tây Sơn hoãn binh với quân chúa Trịnh để rảnh tay đối phó mặt Nam. Nguyễn Huệ đã nhiều lần kéo chiến thuyền và thuỷ quân vào Nam, với sở trường phục binh và kết thúc chiến trường chớp nhoáng, những chiến thắng của Nguyễn Huệ đã bao phen đẩy Nguyễn Ánh chạy dài ra các đảo nhỏ trong vịnh Thái Lan. Và riêng trận Rạch Gầm – Xoài Mút, đã đánh tan 5 vạn quân Xiêm chực thôn tính Việt Nam và Chân Lạp qua lời cầu viện của Nguyễn Ánh.
Trong khi đó, cả vua lẫn chúa ngày càng suy nhược ở Bắc Hà, quan lại phân hóa kết bè tụ đảng, kẻ thì bó tay về ẩn dật, kẻ chỉ lo tranh đoạt quyền hành bổng lộc, tình hình Thăng Long lúc đó cực kỳ rối loạn với nạn kiêu binh Thanh Nghệ, dân chúng đói khổ ta thán khôn xiết. Năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân Bắc tiến, giải phóng Phú Xuân sau năm ngày huyết chiến, rồi trương cờ “Phù Lê Diệt Trịnh”, kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, dựng lại ngai vua cho Lê Hiến Tôn, được vua Lê gả Ngọc Hân Công chúa. Lê Hiến Tôn băng hà, Lê Chiêu Thống nối ngôi. Nguyễn Huệ kéo quân về lại Phú Xuân.
Năm 1788, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai, theo sát việc Vũ văn Nhậm diệt Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành. Lần này, vua Lê bôn đào về Lam Sơn. Không được hậu thuẫn dân chúng ở vùng đất dấy nghiệp khai triều của nhà Lê, Lê Chiêu Thống chạy lên Lạng Sơn rồi phái sứ giả sang Tàu, cầu cứu nhà Mãn Thanh. Bắt được cơ hội này sau nhiều năm dòm ngó, Thanh Càn Long liền xuống chiếu cho Tôn Sĩ Nghị, lúc đó là Tổng đốc Lưỡng Quảng, cùng với Sầm Nghi Đống ở Điền Châu và các đạo binh Vân Nam, Quý Châu tập họp thành một đạo quân 29 vạn lấy cớ giúp Lê Chiêu Thống để cướp nước ta.
*
Ngày 25 tháng 11 năm 1788, quân Thanh vượt biên giới bằng ba ngã: Đạo quân Vân Nam – Quý Châu tiến vào Tuyên Quang, Sầm Nghi Đống dắt quân Điền Châu vào ngã Cao Bằng, và Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh dẫn đại quân tràn qua Lạng Sơn. Thanh Càn Long vạch chiến thuật quy mô ba mũi tiến đánh Thăng Long, với chiến lược thận trọng là dùng Lê Chiêu Thống và đám tong vong làm bình phong chính trị cho việc thiết lập một chế độ cắt đất để cai trị lâu dài. Đối đầu với việc chuẩn bị kỹ lưỡng và đoàn quân hung hãn này, cả Bắc Hà chỉ có một vạn quân bảo vệ, dưới quyền các tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Dụng và Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Huệ đã về Phú Xuân từ lúc giải quyết xong vấn đề Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm. Vì thế, quân Mãn Thanh tràn chiếm Bắc Hà trong thế chẻ tre, đến Bắc Ninh thì gặp Lê Chiêu Thống ra đón.
Ngô Thì Nhậm đề nghị rút quân về Tam Điệp, tức đèo Ba Dội thuộc tỉnh Thanh Hóa để bảo toàn lực lượng và nuôi kiêu chí của giặc. Quả nhiên, Tôn Sĩ Nghị cùng binh tướng không thấy sức chống trả nào của Tây Sơn nên khinh thường cả kẻ rước voi là Lê Chiêu Thống, và quên mất chiến lược của Thanh Càn Long vạch ra nên chỉ lỏng lẻo phân bố các đạo quân trấn thủ các thành mặt Nam Thăng Long, và để cho binh sĩ mặc tình hà hiếp, cưỡng bức dân Nam. Phần Lê Chiêu Thống thì sau khi thụ lãnh sắc phong vua Thanh ban cho hôm 17.12.1788, bỏ niên hiệu Chiêu Thống để dùng niên hiệu Càn Long, ngày ngày sang dinh tướng giặc nhận lệnh, mặc nhiên coi nước ta như một châu huyện của Tàu và chỉ lo giải quyết các mối tư thù thuở trước, không lo việc an dân hay can gián giặc.
Từ Phú Xuân, khi nhận được tin báo của Ngô Thì Nhậm, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đăng đàn tế cáo trời đất tại Bàn Sơn, lên ngôi Quang Trung Hoàng Đế, chính thống trở thành người lãnh đạo dân tộc, dẫn ba vạn quân rời Phú Xuân ngày 26.12.1888. Bốn hôm sau, binh Tây Sơn đã ra tới Nghệ An, và chỉ trong vòng một tuần sau đó, vua Quang Trung đã tập họp được tổng cộng mười vạn binh sĩ và khoảng một trăm thớt voi. So với quân Mãn Thanh thì lực lượng Tây Sơn yếu hơn đến mấy lần về quân số lẫn vũ khí, chỉ được ưu thế là có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, chuyển động quy củ, người lãnh đạo là một thiên tài quân sự nhiều mưu lược, và quan trọng nhất là được hậu thuẫn của dân chúng quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm, tức là có chính nghĩa. Tại Nghệ An, để giặc thêm kiêu căng và bớt đề phòng, vua Quang Trung phái người sang đề nghị với Tôn Sĩ Nghị là đôi bên cùng bãi binh. Quân Mãn Thanh lại càng yên chí rằng binh Nam khiếp sợ oai trời, càng mặc tình hà hiếp lê dân, vui chơi, cướp bóc.
Ngày 15.01.1789, nhằm 20 tháng Chạp năm Mậu Thân, binh Tây Sơn đến Tam Điệp bằng chiến thuật chuyển quân thần tốc, vừa di hành vừa tập thế trận cho các tân binh mới tuyển ở Nghệ An. Vua Quang Trung ngợi khen mưu rút binh của Ngô Thì Nhậm rồi truyền hịch cho tướng sĩ: “Chúng nó sang phen này ra đây ta đã là mua lấy cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này, thân coi việc binh, đã định mẹo rồi, chẳng qua mười ngày là đuổi xong giặc”. Sau đó, Ngài truyền lệnh cho binh tướng Phú Xuân, Nghệ An hợp cùng binh tướng của Đại Tư Mã Ngô Văn Sở cùng ăn Tết sớm, hẹn nhau cùng ăn mừng Khai Hạ tại Thăng Long vào ngày mùng bảy Tết. Kế hoạch của Ngài là sử dụng sở trường của binh Tây Sơn, tấn công chớp nhoáng khi quân Thanh vui chơi ngày Tết và tướng Thanh còn đang mải mê tiệc yến, lại chủ quan việc đợi ra Giêng tấn công vào Phú Xuân hơn là phòng thủ Thăng Long.
*
Vua Quang Trung chia quân làm 5 đạo, tấn công giặc từ ba hướng:
Hướng chính, gồm đạo quân chủ lực, do chính vua Quang Trung điều động, tiên phong là tướng Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, tấn công thẳng vào dãy thành phòng thủ mặt Nam Thăng Long.
Hữu quân gồm hai đạo thuỷ quân vượt đường biển, tiến vào cửa sông Lục Đầu. Đạo thủy quân của Đô Đốc Tuyết sẽ tấn công đám quân tòng vong của Lê Chiêu Thống, tiến chiếm Hải Dương rồi vượt bộ vào đánh mặt Đông thành Thăng Long. Đạo thủy quân của Đô Đốc Lộc sẽ vượt bộ lên Phượng Nhỡn, Lạng Giang, Yên Thế để khóa lương, ngăn viện, và chận đường lui binh của giặc.
Tả quân cũng gồm hai đạo quân, vượt đường núi, tấn công các thành trấn thủ phía Tây Nam Thăng Long. Đạo quân tượng mã của Đô Đốc Bảo sẽ theo ngã Sơn Minh, qua làng Đại Áng, hỗ trợ cho đạo quân chủ lực, tấn công thành Ngọc Hồi.
Đạo quân của Đô Đốc Long bọc theo ngã Chương Đức với nhiệm vụ thọc ngang mặt Tây đánh đồn Khương Thượng, nơi cánh quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống trấn đóng, hỗ trợ cho đạo quân chủ lực giải quyết thành Đống Đa rồi cùng các đạo quân khác tiến đánh ba mặt thành Thăng Long.
*
Đêm trừ tịch Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung ra lệnh tiến quân thần tốc, ba mặt giáp công. Đụng trận đầu với giặc và đám tay sai Chiêu Thống tại Bến Gián Khẩu, binh Tây Sơn tiêu diệt không chừa một mạng nên quân giặc ở Hà Hồi và Ngọc Hồi vẫn tiếp tục uống rượu đón Xuân. Chừng nghe tiếng quân Nam reo hò vang dội ngoài thành vào nửa đêm mùng ba Tết, quân Thanh thủ Hà Hồi mở cửa thành dâng nộp vũ khí xin hàng. Đạo quân chủ lực hợp cùng đạo quân của Đô Đốc Bảo tiến ra Ngọc Hồi vào mờ sáng mùng năm, gặp phải sức cố thủ mãnh liệt của giặc Thanh, đạn trong thành bắn ra như mưa. Vua Quang Trung cho lính ghép ván bện rơm tẩm nước, cứ ba người khiêng một tấm, giắt dao ngắn xông lên đỡ đạn cho 20 lính mang khí giới theo sau, đến sát mặt thành thì ngả ván tràn vào. Chính Ngài cởi voi đốc chiến, quân giặc tan vỡ cấp kỳ, đạp nhau mà chạy tán loạn. Đây là chiến thắng cam go nhất, lộ quân tiên phuông của Đại Tư Mã Ngô Văn Sở có đến tám ngàn người hy sinh.
Cùng lúc đó, đạo quân của Đô Đốc Long ở mặt Tây Nam đã chiếm Khương Thượng rồi tiến như vũ bão sang công phá Đống Đa. Cánh quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống tan rã, Sầm Nghi Đống treo cổ tự ải. Hai đạo thuỷ quân của Đô Đốc Tuyết và Đô Đốc Lộc thanh toán chớp nhoáng các vị trí chiến lược Hải Dương, Phượng Nhỡn, Lạng Giang, Yên Thế rồi hỗ trợ đại quân đánh thẳng vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị nhận tin thất thủ liên tục từ sáng mùng ba Tết, quá khiếp đảm trước sức công ba mặt của binh Tây Sơn nên mở cửa thành, vượt cầu phao sông Hồng chạy lấy thân, vất cả ấn tín, mật chỉ. Giặc Mãn Thanh tranh nhau chạy làm đứt cầu phao, xác nghẹt lòng sông.
Cánh quân Quý Châu – Vân Nam của giặc vừa tới Sơn Tây, nghe tin chủ soái bỏ chạy, các tướng Sầm Nghi Đống, Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long, Thượng Duy Thăng đều tử trận, cũng tất tả tháo chạy. Dọc đường về còn bị phục kích, chận đánh tơi bời bởi các lộ quân của Đô Đốc Lộc, qua biên giới sang Tàu rồi mà vẫn chưa hết bàng hoàng.
Trưa mùng năm Tết Kỷ Dậu, Vua Quang Trung vào Thăng Long sớm hơn dự định đến hai ngày.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét