Lý Thường Kiệt qua tranh vẽ. |
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước, nhiều vị anh hùng đã làm nên sự nghiệp lẫy lừng bằng tài năng, đức độ của mình. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết, nhiều người trong số họ có những uẩn khúc thực sự chưa thể lý giải về giới tính.
Lý Thường Kiệt là một nhân vật lịch sử nổi tiếng. Ông đóng vai trò quyết định trong
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống của vương triều Lý. Tuy
nhiên, nhiều người không biết rằng, trước khi trở thành một hoạn quan,
ông là một người hoàn toàn bình thường.
Một người đàn ông hoàn chỉnh
Lý Thường Kiệt (1019 - 1105) tên tục là Ngô Tuấn, là con của Sùng tiết
Tướng quân Ngô An Ngữ. Khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, Ngô An Ngữ làm chức
võ quan nhỏ và chuyển gia đình về Thăng Long. Lý Thường Kiệt sinh ra ở
đây. Lý Thường Kiệt mồ côi cha năm 13 tuổi. Đến năm 18 tuổi thì mẹ mất,
ông và người em trai là Thường Hiến được chú rể là Tạ Đức động viên,
giúp đỡ nên đã quyết chí học võ, học chữ và rèn trí để giúp nước, làm vẻ
vang cho cha mẹ, dòng tộc. Hết thời gian chịu tang, theo tục phụ ấm
(có nghĩa là tục được nối chức cha), ông được bổ nhiệm chức Kỵ mã hiệu
úy, tức là một viên quan nhỏ về đội quân chuyên cưỡi ngựa. Thời kỳ này,
ông vẫn là một chàng trai bình thường.
Theo nguồn sử liệu từ văn bia, các bản sắc phong tại nhiều đền thờ Lý
Thường Kiệt, nhiều nhà sử học cho rằng, trước khi vào cung làm hoạn
quan, ông đã có vợ và có con. Theo ghi chép của phả họ Ngô và văn bia ở
đền Ngọ Xá (đền thờ Lý Thường Kiệt ở xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh
Thanh Hóa ngày nay) do Nhữ Bá Sĩ soạn vào năm 1876 thì trong thời gian
còn ở nhà để thờ cha mẹ, Lý Thường Kiệt đã lấy vợ. Bia Ngọ Xá thể hiện,
người chú rể Tạ Đức, khuyên ông lấy người con gái tên Tạ Thuần Khanh.
Còn
phả họ Ngô Việt Nam thì chép rằng, ông "lấy vợ sớm, 16 tuổi sinh con,
không may chết cả mẹ và con. Sau lấy vợ khác, một bà họ Tạ, một bà vợ
nữa là Lý Thị Duy Mỹ".
Cũng theo tư liệu mới tìm được của các nhà sử học thời hiện đại thì
chứng tỏ rằng, Lý Thường Kiệt đã từng có vợ con trước khi vào cung làm
hoạn quan. Hai bản sắc phong thời Nguyễn cho vị nữ thần được thờ ở Nghè A
Đô (nay thuộc làng A Đô, xã Yên Trung, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa)
đã chứng minh điều đó. Một bản sắc phong năm Khải Định thứ 9 (1925) và
một bản sắc phong năm Khải Định thứ 2 (1918) có ghi, vị nữ thần thờ ở
Nghè A Đô được nhắc đến là phu nhân Tạ Thị Thuần Khanh, là vợ của Thái
bảo Việt quốc công Lý Thường Kiệt, triều nhà Lý.
Qua những tư liệu đã dẫn trên, có thể thấy rằng, trước khi nhập cung,
Lý Thường Kiệt đã là chồng, là cha, là một người đàn ông hoàn chỉnh. Các
bản sắc phong, các văn bia và chính sử thời Lý đều không chép vợ con
của Lý Thường Kiệt sau này ra sao nên cuộc đời của vợ, con Lý Thường
Kiệt như thế nào, đến nay vẫn là một bí mật. Tuy nhiên, các nhà sử học
đều đặt ra câu hỏi rằng, tại sao người như ông lại phải trở thành một
hoạn quan?
Thực hư uẩn khúc một mối tình và nghi vấn lịch sử
Sách Việt điện u linh chép rằng: "Vì ông có dáng mặt đẹp nên mới tịnh
thân mà sung vào chức Hoàng môn chỉ hậu (một chức quan thái giám trong
cung)". Tuy nhiên, cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng, tại sao Lý Thường
Kiệt lại tịnh thân, nhập triều vẫn còn nhiều nghi vấn lịch sử. Có
thuyết cho rằng, ông nhập cung là vì tiền, có thuyết thì nói, ông nhập
cung vì bị phạt do can gián vua Lý Thái Tông tha cho Nùng Trí Cao, có
thuyết lại ghi, ông bị hãm hại. Cố giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết rằng:
"Thuyết
nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt và tha Nùng
Trí Cao là vào tháng 11 năm 1041. Và, cũng năm ấy, ông được vào cấm
thất (tức là hầu cận cho vua). Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông
bị phạt nặng rồi được cất nhắc lên cao như thế. Không lẽ, vua vừa tha
rồi lại phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm (tức tự hoạn)
một người tôi trung, trẻ tuổi".
Cố GS Hoàng Xuân Hãn nghiêng về giả thuyết cho rằng, Lý Thường Kiệt
vào cung là mong muốn có cơ hội thăng tiến, vả lại cũng do vua yêu cầu.
"Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày ở cạnh vua. Nhất là
từ đời Đường (bên Trung Quốc), hoạn quan lại càng được thế. Khi trước,
tuy được vua tin tưởng nhưng hoạn quan thường chỉ hoạt động trong cung
thất. Từ đời Đường trở đi, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm
đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tịnh thân để được chọn. Đối
với Lý Thường Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm.
Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi" - GS Hãn viết trong công trình nghiên
cứu của mình.
Nhà nghiên cứu lịch sử Thái Bá Tân lại nghiêng nhiều hơn về giả thuyết
Lý Thường Kiêt bị hãm hại. Ông cho rằng, Lý Thường Kiệt hồi nhỏ có yêu
người con gái tên là Dương Hồng Hạc (sau này trở thành hoàng hậu Thượng
Dương). Dương Hồng Hạc sinh trưởng trong dòng tộc họ Dương nổi tiếng,
lúc đó đang là một thế lực rất lớn trong triều. Hiện nay còn nhiều
thuyết không thống nhất lý giải vì sao hai người không đến được với
nhau, tuy nhiên việc Dương Hồng Hạc là nguyên nhân khiến cho Lý Thường
Kiệt
trở thành hoạn quan lại được đề cập đến.
Dương Hồng Hạc là con của Dương Đức Uy và là cháu gọi hoàng hậu Thiên
Cảm (vợ vua Lý Thái Tông) bằng cô. Để tăng thêm quyền lực cho dòng họ
Dương nên hoàng hậu Thiên Cảm đã gả Dương Hồng Hạc cho thái tử Nhật Tôn
(sau này là vua Lý Thánh Tông). Tuy nhiên, thái tử Nhật Tôn sợ họ Dương
tiếm quyền nên dù Dương Hồng Hạc là vợ, nhưng ngài không đoái hoài gì
tới. Hồng Hạc nhớ tới người yêu cũ - Lý Thường Kiệt, là người đang giúp
việc cho thái tử ở Đông cung, mong rằng Thường Kiệt có thể nói giúp vài
lời để cho thái tử bớt lạnh nhạt với mình. Bởi lẽ mối quan hệ giữa
Thường Kiệt với Nhật Tôn tuy bên ngoài là quan hệ chúa - tôi, nhưng bên
trong lại rất thân thiết. Hai người đều là con nuôi của Lý Long Bồ (con
thứ của vua Thái Tổ), cùng lớn lên với nhau từ nhỏ nên tình cảm rất đặc
biệt.
Có lẽ, vì lo cho hậu vận nhà Lý nên Thường Kiệt đã không nhận lời giúp
Hồng Hạc nên ông đã phải nhận mối thù từ người yêu cũ. "Phải chăng vì
lý do đó mà ông đã bị Hồng Hạc và hoàng hậu Thiên Cảm ra tay bức hại
trong một đợt tịnh thân tuyển hoạn quan vào cung? Có thể, cũng vì nỗi
đau trên mà sau này, khi vua Lý Thánh Tông mất, các phe phái tranh giành
quyền lực, Lý Thường Kiệt đã không đứng về phe hoàng hậu Thượng Dương
mà lại ủng hộ phe của nguyên phip Ỷ Lan. Kết quả cuối cùng, ai cũng biết
là phe hoàng hậu Thượng Dương thất bại và nhận lấy kết quả bi thảm" -
nhà nghiên cứu Thái Bá Tân phán đoán.
Đức độ và tài năng
Cho đến nay, điều có thể khẳng định chắc chắn, Lý Thường Kiệt là một
hoạn quan. Cố GS Hoàng Xuân Hãn đã chỉ ra rằng, không chỉ có sử Việt đề
cập chuyện này, mà trong sách Mộng khê bút đàm của người Tống cũng nói,
ông là một hoạn quan. Sách Việt điện u linh chép về ông: "Vào cấm thất
chưa được một kỷ (tức 12 năm), tiếng nổi nội đình, ông được thăng thưởng
nhiều lần, lên tới chức Đô tri, coi tất cả việc trong cung". Thời kỳ
này, rõ ràng vai trò của Lý Thường Kiệt vẫn chỉ thể hiện trong nội cung
chứ võ nghiệp chưa nổi bật. Phải đến năm 1054, khi Lý Thánh Tông lên
ngôi (năm đó ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực nên ông được thăng chức
Bổng hành quân hiệu úy, tức là một chức võ quan cao cấp. Kể từ đây, Lý
Thường Kiệt bắt đầu bước lên võ đài chính trị và có những công trạng
hiển hách như sau này sử sách đã ghi.
Như vậy, nguyên nhân khiến cho Việt quốc công Lý Thường Kiệt tịnh thân
vào triều vẫn là một nghi vấn lịch sử mà khó có thể nào đi đến cùng để
tìm tính xác thực. Song, chúng ta có thể chắc chắn một điều, tài năng,
đức độ và những đóng góp to lớn của ông cho sự bền vững của quốc gia,
dân tộc sẽ mãi mãi được thế hệ người Việt sau này ghi nhớ, noi theo.
Phạm Thiệu
0 nhận xét:
Đăng nhận xét