Đặng Chí
Hùng - Phạm Văn Đồng là một nhân vật cao cấp trong bộ máy lãnh đạo của
cộng sản. Phạm Văn Đồng cũng như nhiều đan em của Hồ Chí Minh đã gây nhiều tội
ác như Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, thảm sát Mậu Thân... Tuy nhiên
nổi bật hơn cả là hai tội ác: Bán nước và tàn ác với quân dân cán chính
VNCH.
Xin giới thiệu
với bạn đọc tóm tắt tiểu sử của ông Phạm Văn Đồng lấy từ ngôi trường cộng sản
mang tên của “đồng chí”:
Phạm Văn Đồng bí danh là Tô, sinh ngày 01/3/1906 tại làng
Thi Phổ Nhất, nay thuộc xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi; là nhà hoạt
động chính trị, nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Những năm 1925- 1926, khi đang học
tại Hà Nội, ông tham gia phong trào học sinh đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu
(1925) và để tang cụ Phan Chu Trinh (1926). Sau đó, ông đi Quảng Châu (Trung
Quốc) dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên (1926).
Cuối năm
1927, ông về nước, tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, đến đầu năm 1929,
được cử vào Kỳ bộ thanh niên Nam kỳ. Tháng 5/1929, ông đi Hồng Kông (Trung Quốc)
dự đại hội của tổ chức này và được bầu vào Tổng bộ và Ban trù bị thành lập Đảng
Cộng sản. Tháng 7/1929, Phạm Văn Đồng trở về Sài Gòn hoạt động cách mạng và bị
thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Tháng 7/1936, do thắng lợi
của Mặt trận Bình dân Pháp, thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải trả tự do cho
Phạm Văn Đồng nhưng lại đưa ông về quê quản thúc. Trở về Quảng Ngãi một thời
gian, ông bí mật liên lạc với tổ chức Đảng ở Quảng Ngãi, tiếp tục hoạt động cách
mạng, sau đó ra Hà Nội tham gia hoạt động công
khai.
Tháng
5/1940, Phạm Văn Đồng đi Côn Minh (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau
đó, ông được cử đi hoạt động cách mạng ở Liễu Châu, Tĩnh Tây (Trung Quốc). Đầu
năm 1942, ông được cử về Cao Bằng xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Tháng 8/1945, Phạm Văn Đồng dự Đại hội Quốc dân Tân
Trào và được vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành
công, ông trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 5/1946, ông đảm nhận nhiệm vụ Trưởng phái đoàn Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đàm phán với Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hội nghị
Fôngtenơblô (Fontainnebleau).
Trước
ngày kháng chiến toàn quốc (19/12/1946), Phạm Văn Đồng được cử vào Quảng Ngãi
làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại miền Nam Trung bộ, trực tiếp lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở đây. Đầu năm 1949, ông được điều về
chiến khu Việt Bắc. Tháng 8/1949, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó
Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Tháng 5/1954, ông là Trưởng đoàn đại biểu của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ (Genève) về Đông
Dương. Từ tháng 9/1954, ông giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,
Trưởng ban Đối ngoại của Trung ương Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ
khóa I (1946- 1960) đến khóa VII (1981- 1987). Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1986
(31 năm), ông liên tục giữ cương vị Thủ tướng Chính phủ (có lúc gọi là Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng). Trong nhiều năm ông đảm đương nhiệm vụ Phó Chủ tịch Hội
đồng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng chi viện cho tiền
tuyến.
Năm 1947
ông được bầu bổ sung ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, năm 1949 chuyển thành ủy
viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại các Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ II (2/1951), lần thứ III (9/1960), lần thứ IV (12/1976), lần thứ V
(3/1982), Phạm Văn Đồng đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được
Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (12/1986), lần thứ VII (6/1991) và lần thứ VIII (6/1996),
ông được Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương;
đến tháng 12/1997 được kết thúc nhiệm vụ theo yêu cầu của
ông.
Phạm Văn Đồng qua đời tại Hà Nội ngày
29/4/2000. (1)
Đọc qua tiểu sử
của Phạm Văn Đồng đã cho thấy đây là một trong những tay lãnh đạo gạo cội và là
một “học trò của Bác” như chính ông ta thừa nhận. Vậy thử xem tội ác của
Phạm Văn Đồng như thế nào sau cả cuộc đời làm lãnh tụ của đảng CSVN? Những điều
đó sẽ được phác họa trong bài viết này.
I. Cùng
Hồ Chí Minh bán nước:
Chối
tội quanh co:
Thứ
nhất, việc bán nước bằng công hàm 1958 đã rõ ràng. Đảng cộng sản viện cớ
là để thống nhất đất nước, nhưng thực sự đảng cộng sản quyết tâm đánh chiếm miền
Nam vừa vì tham vọng bành trướng cố hửu của cộng sản, vừa làm tay sai quốc tế
cho Liên Xô và Trung Quốc. Lê Duẩn bí thư thứ nhất đảng Lao Động (Tên gọi khác
của CS), đã từng nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung
Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997,
tr. 422 và tiết lộ của Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000,
trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày
24-1-2013.)
Liên Xô và
Trung cộng đều mang đặc tính chung của các nước cộng sản là luôn luôn chủ trương
bành trướng, bá quyền. Tại Liên Xô, ngày 15-10-1964, Leonid Brezhnev đảo chính
và lên làm thư ký thứ nhất đảng cộng sản Liên Xô thay Nikita Khrushchev.
Brezhnev, tăng cường viện trợ cộng sản Việt Nam, gửi quân và chuyên viên sang
giúp cộng sản Việt Nam. Đây là khởi đầu chủ trương can thiệp mới của Liên Xô, mà
về sau các nước Tây phương gọi là chủ thuyết Brezhnev, theo đó.
“Nguyên lý Xô viết về luật quốc tế khẳng
định quyền của Cộng đồng Cộng sản can thiệp bất cứ ở đâu mà các lực lượng nội
tại và ngoại lai thù địch đối với chủ nghĩa cộng sản tìm cách biến đổi sự phát
triển một nước theo chủ nghĩa xã hội hướng về chủ nghĩa tư bản, một tình thế
được xem có tính cách đe dọa đối với tất cả các nước cộng
sản.” (The New Lexicon Webster’s Encyclopedic Dictionary of English
Language, Nxb. Lexicon, New York, 1988, mục “Brezhnev
Doctrine”.)
Trung cộng
ở sát ngay phía bắc của Việt Nam. Từ năm 1950, Trung cộng giúp cộng sản Việt Nam
vừa vì sự cầu viện của cộng sản Việt Nam và của Hồ Chí Minh, vừa vì lợi ích an
ninh bản địa Trung cộng và đặc biệt là để đổi lấy Hoàng Sa - Trường Sa của Việt
Nam. Mao Trạch Đông đã từng nói: “Không thể chỉ nói Trung Quốc
giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc là sự giúp đỡ lẫn
nhau.” (Trích La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô
sản”, trong Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt
Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung
Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch. Montreal: Nxb. Tạp chí Truyền
Thông (in lại), số 32 & 33, 2009, tr. 27.)
Trung cộng
đã giúp đỡ từ vật dụng nhỏ nhất cho đến tàu chiến, xe tăng để quân đội VNDCCH có
thể tiến hành cuộc chiến tranh gây đau thương cho dân tộc. Chúng ta không lạ gì
các khẩu 12,7, kim khâu, đá lửa, mũ cối, xe tăng K63, T59... là của Trung cộng
viện trợ. Sau đây là lời kể của ông Dương Danh Dy, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung
cộng với tờ báo mới (của đảng cộng sản): (2)
“Những
người ở lứa tuổi tôi (và trẻ hơn hai mươi, hai nhăm tuổi) hiện nay đều không
quên những viện trợ to lớn của nhân dân Trung Quốc anh em cho chúng ta trong
thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Từ vũ khí đạn dược đến gạo ăn vải mặc, từ ô tô, tầu
thủy, máy bay đến chiếc xe đạp, máy khâu, từ gói mì chính đến cái kim sợi
chỉ..., không sao kể hết.
Tôi còn
nhớ, từ chiếc mũ cối và đôi dép cao su Việt Nam đưa mẫu sang, các kỹ sư và công
nhân Trung Quốc đã chế tạo cho quân đội ta và nhân dân ta những chiếc mũ cối và
đôi dép lốp nổi tiếng một thời.
... Ít
người Việt Nam được biết những con tầu Giải phóng tải trọng chỉ có 50 tấn nhưng
dùng động cơ mạnh tới 800 mã lực (nghĩa là có tốc độ rất nhanh) để có thể từ một
cảng miền Bắc chở vũ khí, lương thực... vào cập bến tại một nơi ở vùng giải
phóng miền Nam rồi trở lại ngay miền Bắc trong đêm đã được các kỹ sư và công
nhân một nhà máy đóng tầu Trung Quốc thiết kế và chế tạo xong trong một thời
gian ngắn kỷ lục theo yêu cầu của chúng ta.”
Hồ Chí Minh nghe chỉ thị của Trung cộng |
Thứ
hai, Trung cộng coi cuộc chiến với người Pháp sẽ giúp họ lấy lại được
đất đai mà họ đã xâm lấn bất hợp pháp tại Việt Nam đã bị người Pháp phát hiện,
lấy lại cho Việt Nam thông qua hiệp ước Pháp-Thanh. Đây là một trong những lý do
mà người Pháp dân chủ cũng là “kẻ thù” trong chiến lược bành trướng, chiếm đất
Việt Nam của Trung cộng. Vì vậy họ cần Việt Minh-Cộng Sản thân Trung cộng chiến
đấu với Pháp, chiến thắng hay thất bại của Việt Minh không quan trọng bằng việc
Trung cộng sẽ chiếm lại được phần đất xâm lấn Việt Nam. Bằng chứng là trong cuốn
sách của tác giả Hà Cẩn với tiêu đề “Mao Chủ tịch của tôi” được tôi giới
thiệu ở“Những sự thật không thể chối bỏ - Phần
9” đề cập đến vấn đề này như sau
tại trang 157:“Người Pháp đã giúp An Nam
chiếm đất đai của Trung Hoa. Việt Minh là đồng minh của Trung Hoa. Trung Hoa đã
độc lập, Việt Minh chiến tranh với Người Pháp sẽ giúp Trung Hoa đòi lại những
phần đất này...”
Thực chất thì
Việt Nam của chúng ta đâu có chiếm đất của Trung cộng. Người Pháp chỉ muốn bảo
vệ quyền lợi hợp pháp về lãnh thổ Việt Nam qua hiệp ước Pháp-Thanh. Trung cộng
rất muốn Việt Minh chống Pháp để có được đồng minh lấy cắp đất nước ta dễ dàng
hơn. Đến đây chúng ta nhận ra một điều là: Người Pháp tuy đô hộ nước ta nhưng
không lấy một tấc đất của Việt Nam, ngược lại họ đã giúp Việt Nam giữ đất giống
như Pháp làm với Thái và Campuchia, Lào. Còn ngược lại người cộng sản luôn tự
xưng là “Kháng chiến chống Pháp, giải phóng dân tộc” lại là kẻ tiếp tay cho
Trung cộng ăn cắp đất đai của chúng ta. Đây là một hành động cho thấy bản chất
bán nước, làm gián điệp cho Trung cộng của Hồ Chí Minh và đàn em cộng sản Việt
Nam.
Trường Chinh, Hồ Chí Minh và cố vấn Trung cộng |
Ngoài ra còn có
bằng chứng sau đây cho thấy sự xuất hiện của quân Trung cộng trực tiếp tham
chiến tại Việt Nam. Trên tờ nhật báo tại Hongkong đăng theo Reuter (tờ báo uy
tín) có viết về sự xuất hiện của 320.000 quân Trung cộng tại Việt Nam chiến đấu
cho chủ nghĩa cộng sản:
Trung cộng thú nhận có 320000 lính tham trận tại Việt Nam |
Thêm vào đó, theo
sử gia Chen Jian, tác giả quyển “Mao’s China and the Cold War”, vào năm
1965, Bắc Kinh đã gửi 320.000 quân sang tham chiến tại VN. Nhà văn Vũ Thư Hiên,
trong quyển “Đêm Giữa Ban Ngày” trong trang 229 đã trích dẫn một đoạn từ
cuốn “Giọt Mưa Trong Biển Cả” của ông Hoàng Văn Hoan (tr.345) về “sự kiện
Hoa quân nhập Việt”:
“Từ năm
1965 đến năm 1970, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao Động Việt
Nam, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn
bộ đội vào Việt Nam”.
Xét về thực tiễn,
Trung cộng thu lợi nhiều mặt thông qua chiến tranh Việt Nam. Trước hết, thông
qua chiến tranh Việt Nam, Trung cộng bắt tay được với Mỹ năm 1972, được Mỹ thừa
nhận chỉ có một nước Trung cộng, công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ Trung
cộng, công nhận không kiếm cách làm chủ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và chống
đối bất kỳ nước nào hay nhóm nước nào muốn làm bá chủ vùng này(ý ám chỉ Liên
Xô). Đó là những điều Trung cộng mong muốn nhất.
Vi
Quốc Thanh (phải) cùng Hồ Chí Minh
tham quan công viên TP Nam Ninh (tháng 2-1959) |
Về biển Đông,
Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của
Trung cộng để Trung cộng viện trợ cho cộng sản vũ khí, trang bị và quân lính
đánh chiếm VNCH. Vì vậy năm 1974, nhân cơ hội VNCH bị Mỹ bỏ rơi, bị cộng sản
Miền Bắc tấn công dồn dập thì Trung cộng ra tay cướp đoạt Hoàng Sa thuộc lãnh
thổ VNCH. Sau năm 1975, khi cộng sản Việt Nam chạy theo Liên Xô, muốn trốn nợ
Trung cộng. Trung cộng liền đánh 6 tỉnh biên giới năm 1979 với câu khẩu hiệu của
Đặng Tiểu Bình “dạy cho CSVN một bài học”. Vì vậy, khi Đông Âu lung lay,
cộng sản Việt Nam qua Thành Đô xin đầu hàng Trung cộng năm 1990, đưa đến hai
hiệp ước 1999 và 2000. Trung cộng chiếm đất, chiếm biển của Việt Nam. Như vậy,
tuy không được tiếng là bên thắng cuộc, nhưng Trung cộng là kẻ thu hoạch nhiều
nhất sau chiến tranh Việt Nam. Và để biện minh cho những hành động bán nước của
mình bằng công hàm 1958, cộng sản Việt Nam đã cho những tên cán bộ trả lời một
cách gượng ép.
Thứ
nhất, trong cuộc phỏng vấn GS Hà Văn Thịnh - giảng dạy môn lịch sử tại
trường Đại học Huế của RFA có nói: “Hồi đó tôi học năm thứ nhất Trường Đại Học Tổng Hợp Hà
Nội. Nói thực là ông Hoàng Tùng khi đó, tôi không nhớ rõ thầy giới thiệu như thế
nào, nhưng mà thầy giới thiệu là các em hôm nay - 180 sinh viên Khoa Sử - Đại
Học Tổng Hợp Hà Nội nghe ông Hoàng Tùng - Ủy viên Trung Ương Đảng, Tổng biên tập
báo Nhân Dân, hay là Ban tư tưởng Trung ương gì đó, chức vụ tôi không nhớ, nhưng
mà ông Hoàng Tùng nói chuyện về lịch sử thì ông có nói chuyện Hoàng Sa. Ông nói
nguyên văn thế này: "Vì ta bận đánh Mỹ, không có thời gian và chưa đủ khả năng
để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống
nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả cho
mình."”(4)
Như vậy đây chính
là cách chạy tội của cộng sản vòng vo trong việc bán Hoàng Sa- Trường Sa cho
Trung cộng.
Thứ
hai, Hội nghị về COC - DOC tại Indonesia ngày 4/9/2010 với tính cách phi
chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc không
này, phía cộng sản Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải
thích về sự im lặng của họ năm 1974, khi Trung Quốc nắm giữ cái mà Việt Nam bây
giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, cộng
sản Việt Nam nói, “có những tình trạng rắc
rối về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung
Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần
đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa vào năm
1974.”
Đây thực chất
cũng chỉ là một hình thức ngụy biện mà thôi!
Thứ
ba, Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp
báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: “Các nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường
Sa như vậy là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả
lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam, kể cả hai
quần đảo này.”
Đây là một câu
nói ngụy biện của cộng sản hiện nay để biện minh cho hành động bán nước của Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng.
Thứ
tư, không khó để thấy thêm những bằng chứng cho thấy cộng sản Việt Nam
hiện nay vẫn theo gương Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tiếp tục bán nước bởi những
phát biểu tri ân giặc:
Đầu tiên là bản
tuyên bố chung 10 điểm “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung
Quốc - Việt Nam” ký kết ngày 21/06/2013 giữa Tập Cận Bình tổng bí thư đảng
cộng sản Trung cộng và Trương Tấn Sang.
Tiếp sau
đó, để đền đáp “công ơn” hiểm độc trên của Trung cộng, Phùng Quang Thanh đại
tướng ủy viên BCT / TW đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt đảng, quân đội
Nhân Dân Việt Nam khẳng định tại buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Giải Phóng
Quân Trung Quốc tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam ngày 28/7/2012 như sau:
“... Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và
mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà đảng, Chính
phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam...”
Thay mặt
cho nhà nước Cộng Hòa Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Nguyễn Thiện Nhân - phó Thủ Tướng
chính phủ, trong lần chủ trì “Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc - Hội Hữu nghị Việt
Nam - Trung Quốc” tại Hà Nội ngày 10/07/2012 đã chỉ thị:
“Hội hữu nghị Việt Nam -Trung Quốc sẽ tổ
chức các hoạt động tri ân các cá nhân, tổ chức và địa phương Trung Quốc, xuyên
suốt trong 5 năm, sau đại hội này...”
Tiêu biểu
cho tư tưởng chiến lược của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trần Đăng Thanh đại tá
phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, thuộc học viện Chính trị Quốc Gia Bộ Quốc
Phòng trong một buổi giảng bài tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây ngày
19/12/2012 đã phân tích:“...Trong 4 năm
kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước Trung
Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi
dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Như
vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ
đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa,
đấy là đối với Trung Quốc hai điều không được
quên...”
Nghĩa
trang liệt sỹ Trung cộng trên đất Việt Nam
Trong
khi, bia mộ liệt sỹ Việt Nam bị đục bỏ những
hàng chữ về quân xâm lược Trung cộng.
Năm 1977, bản
thân Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông ta về công hàm này như sau: "đó
là thời chiến nên phải nói như vậy thôi". Vậy sự thật về việc bán nước của Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng thế nào? Chúng ta cùng nhìn lại đôi nét ở phần
dưới.
II. Bán
nước có văn bản:
Về tội ác
bán nước của Hồ Chí Minh xin bạn đọc quay lại “Những sự thật không thể chối bỏ - Phần
2” để tìm hiểu kỹ hơn. Hồ Chí Minh
là người chỉ đạo Phạm Văn Đồng ra công hàm 1958 bán Hoàng Sa, Trường Sa cho
Trung công. Bài viết này xin điểm lại một số nét chính của sự việc bán nước của
Phạm Văn Đồng.
II.a.
Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN:
Ngày 4
tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng Chu Ân Lai tuyên
bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này được thông qua trong kỳ họp
thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân. Bạn đọc có thể tìm hiểu tại links
sau: (5)
(Những links cũ trong “Những sự thật không thể chối bỏ” - phần 2 đã bị
xóa). Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt như
sau:
1. Trước
hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức:
Công
bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm
1958
Trung
Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa)
Đại biểu
ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị
công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung
Hoa
(Ngày 4
tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị
thứ 100 thông qua)
Quyết
nghị
Ngày 4
tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị
thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước
cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Đính
kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh
hải
Chính
phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một:
Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp
dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc
đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung
quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ,
quần đảo Đông Sa,quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam
Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung
Quốc.
* Hai:
Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường
thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thủy vực từ đường
biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước
thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong
hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên
cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo
Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều
thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
* Ba:
Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước
cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào
không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của
Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân
dân Trung Hoa.
* Bốn:
Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung
quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về
những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị
Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn
vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ
đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những
phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực
này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp.
(Chú ý ở đây: Tây
Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt Nam)
2. Bản dịch
của báo Đất Việt (Cộng sản Việt Nam):
Nội dung
bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng. Tôi xin nêu ra
đây một minh chứng bản dịch của Trần Đông Đức là chính xác vì vấn đề chính trong
tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền HS-TS đã được tờ Đất Việt (Báo của
đảng cộng sản Việt Nam công nhận) (6).
Trong bài
viết của báo Đất Việt (6) có
đoạn: “Theo lý giải của Trung Quốc, ngày
4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế
quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của
Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam)”.
Như vậy: Trung
cộng rõ ràng đã tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố 4/9/1958 của Chu Ân Lai.
Cả dư luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng sản Việt Nam công nhận.
II.b.
Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng:
Ngay sau khi
tuyên bố của Trung cộng về việc HS- TS là của họ thì Phạm Văn Đồng lúc đó là Thủ
tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) tiến hành việc đưa ra công hàm ký ngày
14/9/1958. Công hàm này như sau:
Công hàm này
ngoài ra thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân thời điểm đó đưa tin (Báo
nhân dân là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Việt Nam). Đây là hình ảnh của
Báo nhân dân đã đưa tin về sự kiện này:
Và ngay sau đó
thì sáng ngày 21.9.1958, Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại
Trung cộng, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của Phạm Văn Đồng đến Chu Ân
Lai.
Trước đó,
năm 1956, Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung cộng, Thứ Trưởng
bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Lý Chí Dân (Li Zhimin), tham tán sứ quán Trung
cộng tại Việt Nam: “chiếu theo tài liệu
Việt Nam thì HS và TS thuộc về Trung
Quốc”.
Lê Lộc, Chủ
Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: “Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà
Tống”. Sự việc này tạp chí Beijing
Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài “Chủ quyền không
thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam
Sa”.
Sau này,
khi trả lời Xuân Hồng BBC thì Bà Bảy Vân vợ Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lê Duẩn nói: “Phạm Văn Đồng có ký văn bản:
Ngụy nó đóng ở ngoài đó. Cho nên giao cho TQ quản lý Hoàng Sa... Phạm Văn Đồng
có ký tên...” (7). Điều
này càng xác nhận cho việc bán nước của Phạm Văn Đồng là không thể chối cãi.
III.
Cùng với Lê Duẩn trả thù man rợ quân dân cán chính VNCH:
Thứ
nhất, ngày 1-11-1978, Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng dẫn đầu một phái đoàn
đảng và chính phủ sang Mạc Tư Khoa để cùng Brezhnev ký bản hiệp ước “hợp tác và
hữu nghị”, theo đó hai nước sẽ liên minh với nhau cả về chính trị, kinh tế lẫn
quân sự. Điều 6 của hiệp ước này nói rõ là nếu một trong hai nước bị tấn công,
cả hai nước sẽ dùng những biện pháp thích hợp đối phó. Từ đó, Liên Xô đã hết
lòng viện trợ cho Việt Nam. Số tiền viện trợ và cho vay lên tới nhiều tỷ USD. Bù
lại, Việt Nam sẽ để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và có thể Đà Nẵng làm
đầu cầu quân sự để kiềm chế Trung Hoa và đối đầu với hạm đội thứ 7 của Hoa Kỳ
trong vùng Thái Bình Dương. Trong cuộc gặp với Brezhnev, ngoài báo cáo tình hình
quan hệ với Trung cộng, Campuchia thì Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng đã báo cáo:
“Cơ bản tình hình trong nước chúng tôi đã ổn
định do tôi và các đồng chí trong bộ chính trị không để cho ngụy quân, ngụy
quyền có thể nổi lên bằng việc áp dụng mô hình nhà tù như thời đồng chí Xtalin.
Chúng tôi chỉ lo lắng là Campuchia đang leo thang khủng
bố...” (Trích: “Văn thư lưu trữ của đảng cộng sản Liên Xô trang
422”).
Vậy không ai khác
mà chính Lê Duẩn cùng cộng sản Việt Nam đã đẩy quân dân cán chính VNCH vào lao
tù khắc nghiệt. Và cùng với Lê Duẩn không ai khác chính là Phạm Văn
Đồng.
Thứ
hai, cuốn sách: “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên
Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã giới thiệu ở phần trên cũng viết tại
trang 83: “Đồng Chí Tổng bí thư đảng Lao
động Việt Nam Lê Duẩn cùng ban chấp hành trung ương đảng đã tiến hành ổn định
nhanh chóng tình hình sau ngày 30/4/1975. Chính sách kỷ luật hà khắc mà nhà nước
áp đặt cho những người lính chế độ Sài Gòn đã được chính đồng chí Tổng bí Thư Lê
Duẩn đề ra trong một cuộc họp của bộ chính
trị...”
Tuy nhiên
cuốn sách này cũng cho biết thêm tại trang 84: “Lúc ban đầu, chính quyền và ban bí thư đảng Lao Động lo sợ áp lực
của Liên Hợp Quốc mà đứng đầu là Mỹ sẽ lên án và tăng cường cấm vận kinh tế.
Nhưng do được sự hậu thuẫn và cổ vũ của những đồng chi trong bộ chính trị như
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng... thì chính sách đã được
thực hiện...”
Qua hai đoạn
trích chúng ta thấy gì? Đó là cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Lê Duẩn đã có sự
“cổ vũ, hậu thuẫn” của nhiều lãnh đạo đảng CSVN, trong đó có Phạm Văn
Đồng trong việc bỏ tù và trả thù quân dân cán chính VNCH. Vậy thì Đồng cũng
chính là một trong những kẻ chủ mưu việc này. Tội ác đó là không thể chối
bỏ.
Thứ
ba, chế độ học tập cải tạo rập theo khuôn mẫu của Trung cộng đã được áp
dụng tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1954 với tội phạm, tù binh và tù
nhân bị kết án chống đối chính quyền. Một số nhà văn liên quan đến phong trào
Nhân Văn - Giai Phẩm... phải đi cải tạo lao động vì tư tưởng của
họ.
Đến thời kỳ Phạm
Văn Đồng làm thủ tướng thì luật trừng phạt tù nhân nhất là “phản động” theo định
nghĩa của cộng sản cảng nặng nề hơn. Theo văn bản luật pháp thì quy chế bắt giam
vào trại cải tạo chiếu theo nghị quyết 49 (49-NQTVQH) của Hội đồng Bộ trưởng
(Phạm Văn Đồng là chủ tịch HĐBT) thông qua ngày 20 tháng 6, 1961 và bắt đầu áp
dụng kể từ 8 tháng 9 năm 1961. Đối tượng là "thành phần phản cách mạng" và đe
dọa an ninh công chúng sẽ bị trừng trị nghiêm minh trong giam giữ. Căn cứ vào
nghị quyết này mà cộng sản đẻ ra nhiều chính sách đối với quân dân cán chính
VNCH dưới thời Đồng làm thủ tướng. Nội dung chính là:
“Tất cả
những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức
hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
Tất cả
những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối
lập.
Tất cả
những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách
mạng.
Tất cả
những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải
tạo.
Bốn
thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là "những thành
phần ngoan cố, chống phá cách mạng.". Thời gian "cải tạo" được ấn định là 3 năm,
nhưng sau 3 năm mà chưa "tiến bộ" thì "cải tạo" thêm 3 năm nữa và cứ như thế
tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa... cho đến khi nào "học tập tốt, cải tạo tốt" thì
về...”
Chính vì
vậy Phạm Văn Đồng khi làm thủ tướng đã ra thêm nhiều nghị quyết trừng trị quân
dân cán chính VNC mà họ gọi là “Phản động”. Một tháng sau khi xâm chiếm được
Miền Nam, cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số
121-CP ngày 8-9-1961 để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc
gia chống cộng đi "học tập cải tạo," thực chất là đưa đi tù để trả thù. Có thể
xem thêm một trong những quy định đó tại thư viện pháp luật của cộng sản
(8).
Người tù học tập, cải tạo (Ảnh Hon-Viet.uk) |
Theo Aurora
Foundation thì việc bị giam giữ dài hạn thường bị chuyển từ trại này sang trại
khác có dụng ý ly gián để tù nhân không liên kết với nhau được và đường dây liên
lạc với gia đình thêm khó khăn.
Như vậy tội ác
của Phạm Văn Đồng đối với quân dân cán chính VNCH cũng là không thể nào chối
cãi.
IV. Kết luận:
Ngoài những tội
ác cùng với Hồ Chí Minh như gây chiến tranh phi nghĩa, giết người dân vô tội thì
Phạm Văn Đồng còn nổi lên hai tội đó là bán nước và tàn ác với quân dân cán
chính VNCH. Tội ác đó thời xưa sẽ phải “tru di cửu tộc”. Tuy nhiên ngày nay
không còn điều đó, nhưng nhất định sau khi có dân chủ tự do, người dân Việt Nam
sẽ phải lên tiếng để trả lại công đạo cho những người đã khuất. Đồng thời vạch
tội bán nước cho Trung cộng của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng để thấy bộ mặt thật
của cộng sản chỉ là: Bán nước, độc tài và lừa đảo mà thôi!
28/8/2013.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét