Tưởng Năng Tiến
"Chiều nay, chiều cuối năm, ở một
góc trời xa, tôi ngồi ghi lại những ý nghĩ lan man vụn vặt để gửi bạn
đọc chơi – sau khi nghe hết một CD nhạc trong quán vắng, bắt đầu từ bản
Hoa Xuân của Phạm Duy, đến bản cuối cùng (“Xuân Này Con Không Về”) của
Trịnh Lâm Ngân"...
Xuân vừa về trên bãi cỏ non
Gió xuân đưa lá vàng xuôi nguồn
Hoa cười cùng tia nắng vàng son
Nếu thực sự có mùa xuân êm đềm, và tươi thắm tới cỡ đó mà bạn vẫn chưa
hài lòng thì xin nghe thêm vài câu nhạc nữa – cũng từ bản “Hoa
Xuân,” của Phạm Duy:
Có một chàng thi sĩ miền quê
Hái bông hoa trao người xuân thì
Có một bầy em bé ngoài đê
Hát câu i tờ đón xuân về...
Tôi dám cá là ngay cả vào Thời Trung Cổ, cũng không nơi nào có một
mùa xuân an bình và tươi đẹp đến như vậy. Mà Phạm Duy đâu phải
là người thuộc Thời Trung Cổ. Vậy chớ thằng chả kiếm ở đâu ra
một mùa xuân (vào thời đại chúng ta) mà thái hòa và an lạc dữ vậy
cà?
Thiệt nó đẹp như mơ vậy đó nha. Và sao tui nghi là ổng đã nằm mơ (thiệt)
quá hà. Chớ giữa chúng ta, nhất là những kẻ sinh trưởng ở miền Nam Việt
Nam, có mấy ai đã từng nhìn thấy cái đê. Bờ đê trần trụi vắng hoe
cũng khỏi có luôn, nói chi đến “một bầy em bé... hát câu i tờ đón xuân
về” – vào một buổi chiều xuân nào đó, đã xa lắc xa lơ – trên bờ đê lộng
gió!
Còn chuyện “có một chàng thi sĩ miền quê, ngắt bông hoa trao người xuân
thì” (... ôi thôi) nhắc đến làm chi cho nó thêm buồn. Tìm đâu ra
(nữa) một thằng cha làm thơ dễ thương và hiền lành đến thế?
Tui nói vậy bạn dám cãi lắm nha. Bạn dám sẽ đưa Nguyễn Bính ra làm bia
đỡ đạn, với lý do “ổng là thi sĩ miền quê cuối cùng” của thời đại chúng
ta. Tệ hơn nữa, bạn còn dám mang những bài thơ lục bát (đã được “phóng
ảnh treo tường” để bán) của Nguyễn Duy ra để hù tui nữa – không
chừng?
Xin lỗi bạn chớ, cỡ Tú Xương đây mà cũng đã có lúc phải ứa lệ – rấm rứt
khóc thầm (dám bằng tiếng Pháp) vì nạn đô thị hóa, đây nè:
Sông kia giờ đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng ai gọi đò...
Xá gì Nguyễn Bính, nói chi tới cỡ Nguyễn Duy. Tóm lại, tui tin rằng
Nguyễn Khuyến mới đích thực là thi sĩ miền quê cuối cùng của dân tộc
Việt Nam:
Tháng Giêng hai mươi mốt chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không
Dở giời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông
Chớ còn mấy trự làm thơ (lóc nhóc) sau này đều đã bị đô thị hóa, đã
“phong sương mấy độ qua đường phố” hết trơn rồi – theo như cách nói của
Sơn Nam. Và tôi ngại nhất là cái kiểu bụi đời (ướt át) của ông Thế Lữ:
Rũ áo phong sương trên gác trọ
Ngắm nhìn thiên hạ đón xuân sang
Cái gác trọ này – tôi bảo đảm – nằm ở Hà Thành, vào cuối thập niên ba
mươi hay đầu bốn mươi gì đó. Thêm cái kiểu cách “rũ áo phong sương” đủ
khiến chúng ta hình dung ra được cả đám Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Xuân
Diệu, Huy Cận... đã sống cải lương chết mẹ đi rồi. Đâu còn “thi sĩ miền
quê” nào nữa, mấy cha?
Đô thị hóa, tất nhiên, không phải chỉ xảy ra ở Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường. Không tin, cứ đọc Nguyễn Bính mà xem:
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Đã mấy mùa xuân én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa mận nở
Riêng ta với người buồn lắm thay
Bạn thấy chưa: lại thêm hai ông nhô con bỏ nhà “dzô” Nam, thuê gác trọ,
sống giữa Sài Thành Hoa Lệ. Mà đi giang hồ chút đỉnh vậy là phải chớ.
Chính quê hương của Nguyễn Bính cũng đã nhiễm bụi thị thành từ lâu rồi,
còn nấn ná ở đó làm chi cho mụ người ra:
Hoa chanh mọc ở vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình dân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hoa đồng cỏ nội bay đi ít nhiều...
Coi: nàng mới ra tỉnh về (có chút xíu hà) mà hoa đồng cỏ nội đã bay đi
mất liền một mớ. Lỡ mà “ẻm” ghé chơi Hà Nội hay Hải Phòng (chậm lắm) ba
đêm kể như rồi, còn gì là “người xuân thì” theo tiêu chuẩn “chân quê”
nữa, đúng không/
Bạn hết cãi chưa/ Dù bạn đã tắt đài, tôi biết bạn vẫn còn ấm ức vì cái
giọng điệu hoài cổ cực đoan và (hơi) quá khích của tui từ khi đặt bút
xuống cho tới bây giờ – phải không nào?
Đừng có nghĩ bậy bạ như vậy, mang tội chết à nha, cha nội. Coi: cuộc
tình dấm dớ của một anh thi sĩ miền quê với một cô gái xuân thì – hay
hình ảnh một bờ đê lộng gió, với bầy em bé tung tăng, hát câu i tờ, vào
buổi chiều xuân có nắng vàng hanh nào đó – hoàn toàn và tuyệt đối
có liên quan, dính dáng gì tới tui đâu. Cớ sao tôi lại hoài cổ chớ/ Đây
là chuyện riêng của... Bà Huyện Thanh Quan hay (cùng lắm) là của ông nội
hoặc của ông già tôi thôi hà.
Mà hoài cổ, theo tôi, là thứ tình cảm hơi khó hiểu. Làm sao chúng ta có
thể yêu mến hay ngưỡng mộ một thời đại mà mình tuyệt đối không có dính
dáng gì tới nó/ Hoài vọng hay hoài cảm, có lẽ, dễ hiểu và phổ biến hơn.
Mọi người, khi bắt đầu luống tuổi, hẳn đều thấy tiếc nuối ít nhiều
khoảng ấu thơ hay niên thiếu của mình – dù chúng ta sinh ra và trưởng
thành ở bất cứ đâu.
Dù vậy, tôi vẫn lậy Trời cho bạn đừng xui tới cỡ là sinh ra ở miền Bắc –
vào khoảng thập niên 1940, 50 hay 60 – và cứ phải sống mãi ở nơi đó cho
đến bây giờ. Tuổi thơ và tuổi trẻ của bạn – tất nhiên – cũng đẹp, cũng
thơ mộng vậy; tuy nhiên, tôi tin là nó sẽ đẹp hơn, mộng mơ hơn (chút
đỉnh) nếu Bác và Đảng đừng xía vô cuộc đời bạn quá nhiều – như họ vẫn
cứ thích làm như thế, từ hơn nửa thế kỷ qua.
Còn nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam thì đỡ mệt biết chừng nào mà nói.
Sẽ không ai bắt bạn phải đeo khăn quàng đỏ và đi nhặt rác để hoàn thành
kế hoạch nhỏ. Bạn cũng được miễn cái vụ “thay trời làm mưa” hay “nghiêng
đồng cho nước chảy ra ngoài” và bạn được tự do đi biểu tình “đả đảo”
hoặc chửi rủa bất cứ thằng cha hay con mẹ (cà chớn) nào mình không
thích.
Trong một hoàn cảnh sống tương đối dễ thở như thế (và nếu bạn lại sống
trong một thành phố ở cao nguyên) thì nhìn thấy “xuân về trên bãi cỏ
non” (kể như) là chuyện nhỏ thôi. Điều đáng tiếc là những ngày tháng an
lành, phẳng lặng đó không kéo dài lâu.
Đến khoảng cuối thập niên năm mươi, theo trí nhớ non nớt của tôi, trong
không khí an bình của miền Nam thoang thoảng đã có mùi vị chiến tranh –
qua những bản nhạc tâm lý chiến (thường được hát ở phòng trà và nghe ra
hơi nhiều kịch tính) của những ông nhạc sĩ quân đội, như bản “Phiên
Gác Đêm Xuân” của Nguyễn Văn Đông chả hạn:
Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chờ xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay
Nào ngờ đâu hoa lá rơi...
Trời đất, đơn vị bạn đụng địch, “súng xa vang rền” mà Nguyễn văn Đông
vẫn đang mơ ngủ. Không hề nghe ổng ban lệnh ứng chiến hay kế hoạch cứu
viện gì hết trơn hết trọi; đã vậy, sau khi tỉnh giấc, ổng bắt đầu... mơ
mộng:
Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Và ước chiếc bánh ngày xuân
Cùng hương khói vương niềm thương...
Thiệt tình, ổng làm đảo ngược binh pháp hết trơn. Người ta thì cư an tư
nguy còn ổng thì cư nguy tư an. Những sĩ quan cao cấp trong quân đôi
miền Nam, như đại tá Nguyễn văn Đông, chắc có hơi nhiều; bởi vậy – chỉ
chừng mười năm sau – năm 1968 thì súng AK của Trung Cộng và Tiệp Khắc nổ
thiệt, và nổ khắp bốn mươi tỉnh lị và thành phố của miền Nam (kể luôn
thủ đô Sài Gòn).
Cũng từ đây, chiến tranh lan vô thành phố. Nay, “plastic” đặt nổ “lầm”
chỗ này; mai, hỏa tiễn 122 ly rơi “lộn” vô chỗ khác. Và dù vậy, xã hội
miền Nam vẫn cứ vui như tết – khi Tết đến.
Nếu so với miền Bắc – nơi mà vì “hoàn cảnh đất nước khó khăn” nên chỉ có
quí vị ủy viên trung ương đảng CSVN uống rượu mừng xuân, thay cho cả
nước – người dân miền Nam hoàn toàn bình đẳng trong chuyện đón xuân. Cứ
nghe bản “Ly Rượu Mừng” của Phạm Đình Chương là đủ biết:
Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó
Á... a... a... a
Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
Á... a... a... a
Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
Á... a... a... a
Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đây chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đường
Chiến đấu công thành
Sống cuộc đời lành
Mừng người vì nước quên thân mình
Kìa nơi xa xa có bà mẹ già
Từ lâu mong con mắt vương lệ nhòa
Chúc bà một sớm quê hương
Bước con về hòa nỗi yêu thương
Á... a... a...
Hát khúc hoan ca thắm tươi đời lính
Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương
Nào cạn ly mừng người nghệ sĩ
Tiếng thi ca chấm phá tô nên đời mới
Bạn hỡi vang lên lời hứa thiêng liêng
Chúc non sông hào bình hòa bình
Ngày máu sương thôi tuôn rơi
Ngày ấy quê hương yên vui
Đợi anh về trong chén tình đầy vơi
Nhấc cao ly này
Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc chan hòa
Ước mơ hạnh phúc nơi nơi
Hương thanh bình dâng phơi phới
Coi: nẫy giờ mới chừng mười phút mà mỗi người đã uống đâu cỡ chục ly: ly
tặng anh nông phu, ly chào anh công nhân, ly mừng ông thương gia, ly
mừng người nghệ sĩ... Chưa đã, còn thêm vài “chén quan san” để “chúc
người binh sĩ lên đường” nữa. Thiệt, vui còn hơn tết và cả nước (chắc
chắn) đều “xỉn” thấy mẹ luôn!
Thỉnh thoảng mới có vài chiến sĩ say mê chiến đấu (hay đãng trí)
đến độ quên luôn cả nhậu, và nhất định “Xuân Này Con Không Về”:
Con biết không về mẹ chờ em trông
Nhưng nếu con về bạn bè thương mong
Bao lớp trai hùng chào xuân chiến trường
Không lẽ riêng mình êm ấm
Mẹ ơi con xuân này không về...
Những chàng “trai hùng chào xuân chiến trường” như thế, tiếc thay,
không nhiều và cũng không mấy khi được giữ những chức vụ cao trong
quân đội. Điều đáng tiếc hơn nữa là trong cuộc chiến tự vệ vừa qua,
quân dân miền Nam đã áp dụng một chiến lược (rất) sai lầm. Thay vì “vui
nhiệm vụ không quên xuân” thì họ đã làm ngược lại là “vui xuân nhưng
không quên nhiệm vụ”. Nói cách khác “vui xuân” mới là chuyện chính, còn
“nhiệm vụ” chỉ là chuyện phụ (và là chuyện nhỏ) thôi!
Cùng lúc – ở miền Bắc Việt Nam – khi Tết đến (sau khi nghe chủ tịch
nước, chủ tịch quốc hội, tổng bí thư, thủ trưởng ban ngành, đơn vị...
chúc tết xong) là mọi người đâm bổ đi “tranh thủ làm việc gấp hai” để
“thi đua lập chiến công dân đảng.” (Đ... mẹ chơi vậy ai chơi cho lại,
mấy cha!)
Cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt ra sao, vào mùa Xuân năm 1975, mọi người đều
biết (và đều tiên đoán được). Từ đó, nhân dân hai miền đều chỉ còn được
nghe một bản nhạc xuân duy nhất: Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh
quang vinh, ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào. Sài Gòn ơi cả nước vẫy tay
chào...
Cũng như bạn, tôi chịu không nổi cái loại nhạc (thổ tả) này nên đã vẫy
tay chào “thành phố Hồ Chí Minh quang vinh” để... ra đi – và đi hơi sớm.
Từ đó đến nay đã quá một phần tư thế kỷ. Hơn ba mươi lăm năm qua biết
bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước mương, nước rãnh... đã ào ào
chảy qua cầu (và qua cống)/
Chiều nay, chiều cuối năm, ở một góc trời xa, tôi ngồi ghi lại những ý
nghĩ lan man vụn vặt để gửi bạn đọc chơi – sau khi nghe hết một CD nhạc
trong quán vắng, bắt đầu từ bản Hoa Xuân của Phạm Duy, đến bản cuối cùng
(“Xuân Này Con Không Về”) của Trịnh Lâm Ngân.
Nhạc xuân gì mà nghe buồn quá má ơi!
Tưởng Năng Tiến
0 nhận xét:
Đăng nhận xét