Cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu 13-11-1956-(Nghệ
An)
|
Võ thị
Linh
Năm 1956, cuộc
nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu
chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải
Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân.
Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng
nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố
Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với
những tư liệu lịch sử rất giá trị.
Nhưng không vì
thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân
đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối
hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể
đếm băng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi giới
hạn suy nghĩ của loài người.
Bài hát của
người dân Quỳnh Lưu trong ngày nổi dậy
Anh đi giết
giặc lập công
Con thơ em gửi
mẹ bồng
Ðể theo anh ra
tiền tuyến
Tiêu diệt đảng
cờ Hồng
Ngày mai giải
phóng
Tha
hồ ta bế ta bồng con ta
Trung ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh Cải cách ruộng đất cho
Trường Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng, phụ trách điều
hành. Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp
đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh
trực tiếp từ trung ương mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương. Thành
phần trong các đoàn, đội được tuyển lựa đều là thành phần cốt cán, bần cố nông,
là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong bộ đội.
Càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần
đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng
đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt cải cách
ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến 10.000 người. Ðội
cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê rợn của chế độ. Sự tàn
sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của CSVN. Thí dụ : cứ mỗi xã
có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của
xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng
tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử
tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh
giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu, ta
sẽ thấy sự dã man ra sao:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho
ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho
Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ
Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.
Mục
tiêu cuộc Cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh trừng quy
mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải
vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho
đảng vì đã trau giồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy
tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản
đảng.
Chính CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh
trừng này có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng
viên không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của
đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết
tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân
Ðảng chẳng hạn.
Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền
Bắc, trước kia đã từng tham gia nhiều vụ Cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu
tố chụp mũ như sau :
“...Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông
Nguyễn Văn Ðô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Nạn nhân
Nguyễn Văn Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết
tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói
rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt động cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể
tội là 1 nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ. Một cụ già khác lên tố về
việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng
hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông
đã cứng cỏi trả lời : Ông không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác,
cho kháng chiến mà thôi.
Ông
trả lời cô con gái là : "Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra
bà nữa”. Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ
tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu “Ðả đảo tên Ðô ngoan cố” để đàn
áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và
quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g
trưa mới xong".
CS
ĐÀN ÁP DÃ MAN CUỘC NỔI DẬY
Sau
cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải cách ruộng đất đẫm
máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng
viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục
đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng
xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy
tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.
Ở
nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những
địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra
thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình.
Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng
vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội,
Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra
thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức,
dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN
rất lo sợ.
Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các
xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên,
Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo
những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả
cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh
cho tự do của nhân dân. Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản
kiến nghị nguyên văn như sau :
-
Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo
sĩ bị bắt bớ giam cầm,
-
Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những
vị đã bị thủ tiêu,
-
Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị
chính quyền tịch thu hoăc xung công,
-
Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo
hữu đã bị vu khống.
Cán
bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng. Lúc đầu họ nhất định không ký
tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị.
Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi : Tòa thánh La Mã (qua trung
gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi
đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản
quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.
Dân
chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết,
tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết
trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9-11-1956, Ủy Ban Kiểm
Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra
đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa
thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại. Sáu thanh niên đã
đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên
sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong
tuần.
Sau
đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm
Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp
sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ
lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán
đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù
tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên
thay cho những người gục ngã phía trước.
Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm
đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới
cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa
10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng
này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp
cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất.
Rồi
30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành
1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự
tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê
quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể
diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ
ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời : “Tôi không biết về vấn đề chính trị,
vì tôi là nhà tu hành”. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí
đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có
đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.
Ðêm
11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu
tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do
Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g
sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban
Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã
Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.
Rạng ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của
gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát “Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa” đã được truyền
đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục
:
Anh
đi giết giặc lập công
Con
thơ em gửi mẹ bồng
Ðể
theo anh ra tiền tuyến
Tiêu diệt đảng cờ Hồng
Ngày mai giải phóng
Tha
hồ ta bế ta bồng con ta
Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to
những khẩu hiệu: “Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân”,
“Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu”, “Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt”…
Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc
Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc
tế.
Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động
Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này
quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng
bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn
miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa
dân quân và VC.
Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304
vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai
chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân
từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường
kỳ đấu tranh.
Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa
quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh
ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống
VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh
của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để
giải phóng dân tộc.
Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi
trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm
Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban
chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự
xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con
ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ
Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: “Chúng tôi là nhà tu hành, chúng
tôi không biết gì đến việc nhân dân”, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải
về Hà Nội.
CS
bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng
2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho
2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh
mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược
lại sự thật.
Dù
nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh
Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn
6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của
người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi
sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự
do.
Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp
nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh
sáng.
Ðòi
cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một
cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một
dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống
dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể.
Với
những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống,
đảng CSVN đã giải quyết ra sao? Chỉ là sự im lặng.
Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân
VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi
chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn
vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang
trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của
cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do (trích bài viết của tác gỉa Cẩm
Ninh).
Dù
nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh
Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn
6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của
người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi
sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự
do.
Võ thị
Linh
Blog Cuộc Sống Vươn Lên
Trí Nhân
Media
0 nhận xét:
Đăng nhận xét