Rất nhiều người có chung một nỗi
băn khoăn: Bao giờ thì Việt Nam
được dân chủ hoá? Để trả lời câu hỏi ấy, hầu như ai cũng biết một cuộc cách
mạng dân chủ ở Việt Nam
chỉ có thể xảy ra với một trong hai tình huống: Một, từ trên xuống; và hai, từ
dưới lên.
Dân chủ hoá từ trên xuống là một
cuộc cách mạng lý tưởng nhất bởi nó nhanh nhất và ít bị trả giá nhất: Đó là các
cuộc cách mạng đã diễn ra tại Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu
thập niên 1990, khi giới lãnh đạo ý thức là không thể kéo dài nguyên trạng và
chấp nhận thay đổi chế độ ngay cả khi biết với sự thay đổi ấy họ sẽ mất tất cả quyền
lực.
Thứ nhất, ở Việt Nam không có,
và sẽ không có một nhà lãnh đạo nào, dù sáng suốt đến đâu, có quyền lực để tự
mình quyết định những sự thay đổi lớn lao liên quan đến số phận của cả chế độ.
Kết cấu quyền lực ở Việt Nam
khác hẳn ở các quốc gia cộng sản khác trước đây cũng như hiện nay: Ở các nước
ấy, chủ tịch đảng cũng đồng thời là chủ tịch nước. Khi nắm trong tay cả hai
chức vụ ấy, người ta dễ dàng trở thành kẻ quyết định cuối cùng. Ở Việt Nam, ngược lại,
người lãnh đạo đảng và người lãnh đạo nhà nước và chính phủ khác nhau, do đó,
không ai thực sự có quyền quyết định những vấn đề lớn cả. Tất cả đều phải thông
qua ý kiến tập thể, ít nhất của Bộ Chính trị. Để cả tập thể ấy thống nhất với
nhau về việc thay đổi chế độ để dân chủ hoá là một không tưởng.
Thứ hai, chắc chắn Trung Quốc sẽ
không thể chấp nhận Việt Nam
được dân chủ hoá trước. Khi thấy Việt Nam có dấu hiệu rục rịch từ bỏ chủ nghĩa
cộng sản, chắc chắn Trung Quốc sẽ can thiệp ngay. Trong tình hình hiện nay, khi
Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc trong rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế đến
chính trị, những sự can thiệp ấy rất dễ thực hiện.
Bởi vậy, triển vọng lớn nhất của xu
hướng dân chủ hoá ở Việt Nam
là từ dưới lên. Tuy nhiên, ở đây lại có một vấn đề lớn: Lực lượng nào sẽ đảm
nhiệm công việc thay đổi theo chiều hướng dân chủ ấy? Để trả lời câu hỏi ấy,
các nhà bình luận chính trị và xã hội có thói quen nhìn vấn đề từ góc độ kinh
tế - xã hội với những thành phần giai cấp khác nhau.
Trước hết, đông đảo nhất ở Việt Nam là các nông
dân. Trong nhiều năm qua, những kẻ bị áp bức và bóc lột nhiều nhất ở Việt Nam cũng là các
nông dân. Những cuộc biểu tình đông đảo và gây chú ý trong dư luận nhất cũng
gắn liền với nông dân. Lý do dễ hiểu: một trong những yếu tố quan trọng nhất bị
giới lãnh đạo Việt Nam
khai thác để làm giàu và phân phối lợi nhuận để mua chuộc sự trung thành của
các đảng viên chính là đất đai. Việc cướp đất ấy dẫn đến sự bất mãn của nông
dân ở nhiều địa phương khác nhau. Lâu nay, rải rác đây đó, có các cuộc biểu
tình của nông dân nhằm chống lại lệnh cưỡng chế của chính quyền.
Nhưng những sự bất mãn và các cuộc
biểu tình ấy có thể dẫn đến việc làm thay đổi chế độ hay không? Câu trả lời hầu
như chắc chắn: Không. Lý do đầu tiên là hầu hết nông dân thường chỉ nghĩ đến
những cái lợi cụ thể trước mắt: khi chính quyền cướp đất của mình thì mình vùng
lên tranh đấu, nhưng khi chính quyền cướp đất của người khác thì người ta dễ khoanh
tay đứng ngó, hoặc, khi tình hình căng thẳng quá, chính quyền chỉ cần nhân
nhượng một tí, họ cũng dễ dàng thoả mãn và từ bỏ mọi toan tính chống đối. Lý do
thứ hai là tuy nông dân chiếm một phần lớn dân số nhưng họ bị cô lập về phương
diện địa lý: làng này xuống đường tranh đấu, làng khách chưa chắc đã biết. Từ
việc cô lập về địa lý dẫn đến sự cô lập về truyền thông và hậu quả là không có
nhiều người biết. Điều này dẫn đến hai hậu quả khác: Một, ít người ủng hộ; và
hai, khó phát triển thành những cuộc xuống đường rầm rộ để có thể uy hiếp được
chính quyền.
Còn lực lượng công nhân? Ở Việt Nam, giai cấp
công nhân càng ngày càng lớn và đời sống kinh tế của họ cũng gặp rất nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, sự bất mãn của họ, nếu có, thường nhắm vào chủ nhân của xí
nghiệp hơn là vào chính quyền. Chủ nhân của các công ty lớn lại thường gắn liền
với người ngoại quốc, do đó, thù hận của họ cũng hướng ra bên ngoài. Đó là lý
do tại sao cho đến nay, hầu hết các cuộc đình công hay biểu tình thường diễn ra
trong các xí nghiệp và công ty do người ngoại quốc làm chủ.
Giới thanh niên và trí thức Việt Nam hiện nay có
thể được xem là thành phần “tiến bộ” nhất: Nhiều người trong họ thấy được những
sự bất lực và bế tắc của nhà cầm quyền cũng như có khát vọng được tự do. Tuy nhiên,
“nhiều” không có nghĩa là đa số. Khác với ở Ai Cập và các quốc gia Trung Đông
trong cách mạng mùa xuân đầu năm 2011, nơi tỉ lệ thanh niên, dù đã tốt nghiệp
đại học, thất nghiệp rất cao, ở Việt Nam, về phương diện kinh tế, thanh niên
không đến nổi quá khó khăn, do đó, rất khó hy vọng họ sẽ kết tập lại thành một
trận chung để đấu tranh cho dân chủ.
Một thành phần khác có khả năng
đương đầu với chính quyền là các tôn giáo. Ở tôn giáo nào cũng có những người
phản kháng, nổi bật nhất là Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo và Công giáo. Hai tôn
giáo đầu chỉ giới hạn ở các tỉnh phía Nam; Phật giáo thì bị quá phân tán; chỉ
có Công giáo là tương đối thống nhất, và do đó, khá mạnh, nhưng dù mạnh đến mấy
thì, một mặt, Công giáo cũng chỉ chiếm khoảng 10 phần trăm dân số; mặt khác, do
chỉ là một thiểu số, họ khó trở thành những nhà lãnh đạo cho phong trào dân chủ
trong cả nước.
Nói tóm lại, từ góc độ kinh tế và
xã hội, sẽ không có lực lượng nào đủ sức để chống lại chính quyền, thậm chí,
gây sức ép để chính quyền phải thay đổi chế độ.
Một vấn đề có thể được đặt ra: Tại
sao tất cả các thành phần trên không thể kết hợp lại với nhau để thành một lực
lượng duy nhất và mạnh mẽ? Dĩ nhiên, điều đó có thể xảy ra, và trong hoàn cảnh
Việt Nam
hiện nay, đó là niềm hy vọng duy nhất để có dân chủ. Có điều: khi nào, và với điều
kiện nào, tất cả các thành phần trên có thể đứng lại được với nhau? Câu trả
lời: Tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Người Việt Nam,
bất kể thành phần kinh tế, xã hội và tôn giáo, sẽ đoàn kết lại khi đất nước bị
uy hiếp và khi chính quyền bất lực, thậm chí, đầu hàng trước những sự uy hiếp
ấy. Tất cả những sự uy hiếp ấy chỉ đến từ một nguồn: Trung Quốc.
Nói cách khác, theo tôi, lực lượng
đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam chỉ đoàn kết và trở thành mạnh mẽ khi Trung
Quốc gia tăng mức độ lấn chiếm biển đảo và khi chính quyền Việt Nam càng lộ rõ
bản chất nhu nhược của họ trong thế trận đối đầu với tham vọng bành trướng ấy.
Nguyễn Hưng Quốc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét