Ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ |
Nguyễn Lộc Yên
Nguồn gốc anh em Tây Sơn: Tổ tiên ở làng Hương Cái, huyện Hưng
Nguyên, Nghệ An. Khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra Nghệ An (1655);
họ theo chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp. Ông cố của Nguyễn Nhạc là Hồ Phi
Long vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở huyện Tuy Viễn, Bình Định, cưới vợ
sinh ra Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ là
Nguyễn Thị Đồng và định cư tại đó. Nguyễn Thị Đồng là con gái duy nhất
nên họ của con cái đổi từ họ Hồ sang họ của mẹ. Người con là Nguyễn Phi
Phúc cũng buôn trầu, và làm ăn phát đạt. Có tài liệu ghi là họ Hồ đã đổi
theo họ chúa Nguyễn ngay khi vào Nam.
Anh em Tây Sơn được gọi là “Tây Sơn tam kiệt”, thụ giáo thầy Trương
Văn Hiến, có tài liệu gọi là giáo Hiếu, thầy khích lệ: “Tây khởi nghĩa
Bắc thụ công” (Khởi nghĩa ở Tây Sơn, thành công ở miền Bắc).
Nguyễn Nhạc làm biện lại. Năm 1771, thấy đất nước đang bị xâu xé,
ông cùng hai em là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, đến núi Thượng Đạo, ấp Tây
Sơn khởi nghĩa. Quân Tây Sơn đến các thôn làng, phố chợ có đủ khí giới
nhưng không hại tính mạng và tài sản của dân. Trái lại, trừ khử bọn tham
quan, những kẻ trọc phú lưu manh và trộm cướp. Họ lấy của người giàu
phân phát cho người nghèo, chỉ dành cho họ một số ít thóc gạo mà thôi,
nhờ đó quân Tây Sơn tiến đến đâu thắng đến đó.
Nguyễn Nhạc là người can đảm và mưu trí, lúc mới khởi nghĩa, ông
ngồi vào cũi, giả bị nhân dân bắt đem nộp quan phủ để lấy thưởng. Tuần
phủ là Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật, cho khiêng cũi vào thành nhưng đến
nửa đêm, Nguyễn Nhạc tháo cũi chui ra mở cửa thành, cho quân của mình
xông vào, đánh đuổi quân quan một cách bất ngờ. Thành Qui Nhơn lọt vào
tay Tây Sơn, từ đấy anh em Nguyễn Nhạc có một căn cứ dùng để xuất phát
đi các nơi khác.
Trong số người theo Tây Sơn, có Lý Tài và Tập Đình là người Tàu có
tài. Quân Tây Sơn đặt xong đại bản doanh ở Qui Nhơn, tổ chức quân đội có
qui củ. Khi chúa Nguyễn bị tướng của chúa Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đánh
đuổi, chạy vào Quảng Nam, nương náu ở Bến Ván, chúa Nguyễn lập cháu là
Nguyễn Phúc Dương lên làm Đông Cung, để phòng xa nếu mình bị rủi ro, sẽ
có người kế vị. Chúa Nguyễn chạy vào Trà Sơn, sau đó cùng cháu là Nguyễn
Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định. Đông cung Nguyễn Phúc Dương ở
lại xứ Quảng, đóng đồn ở làng Câu Để thuộc huyện Hòa Vinh.
Tây Sơn phải đương đầu với quân của Hoàng Ngũ Phúc (quân Bắc Hà)
khi đó đã vượt được qua đèo Hải Vân và lấy được đồn Trung Sơn và Câu Để.
Nguyễn Nhạc cho Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tự mình
làm hậu tập. Tiền đội của Trịnh bị nao núng, Hoàng Ngũ Phúc cử ngay
Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh đánh áp lại hai bên, quân
Tập Đình phải rút về Bến Bản và Đông cung được đưa về Qui Nhơn (thuộc
tỉnh Bình Định).
Đầu năm 1775, quân Trịnh chiếm Thuận Hóa, Tây Sơn bị lưỡng đầu thọ
địch nên xin hòa với quân Bắc Hà, Hoàng Ngũ Phúc đồng ý, vì quan lại của
Trịnh lo chỉnh đốn Thuận Quảng theo chính thể Bắc Hà. Tây Sơn phụ trách
ba phủ Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, và lo việc truy kích quân chúa
Nguyễn mới vào Gia Định.
Hoàng Ngũ Phúc về lại Bắc Hà, giao cho phó tướng Bùi Thế Đạt giữ
thành Phú Xuân. Nguyễn Nhạc muốn lợi dụng danh nghĩa Đông cung để thu
phục quan lại và quân sĩ của chúa Nguyễn. Nhạc gả con gái là Thọ Hương
cho Đông cung và ép Đông cung lên ngôi. Bất thình lình, Nguyễn Nhạc cử
Nguyễn Huệ đánh úp Phú Yên. Năm 1775, tướng của chúa Nguyễn là Nguyễn
Quyên và Nguyễn Khôi, ở lại Quảng Nam không đủ quân lương, Tây Sơn đánh
chiếm Quảng Nam.
Qua năm sau, Nguyễn Lữ đánh lấy được Sài Gòn, Gia Định. Nguyễn Ánh
chạy qua Biên Hòa, sau nhờ tướng Đỗ Thành Nhân chiếm lại được Sài Gòn.
Nhưng lương thực và kho tàng ở đây đã bị quân Tây Sơn chuyển về Qui Nhơn
hết sạch. Kể từ năm 1776, thanh thế Tây Sơn rất mạnh, Nguyễn Nhạc cho
đắp lại thành Chà Bàn làm kinh đô, dựng cung điện, định triều nghi ngang
nhiên xưng Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm
Phụ chính.
Nguyễn Hữu Chỉnh là một mưu sĩ thất thế bên Trịnh chạy sang, Chỉnh
xưa kia là thủ hạ của Hoàng Ngũ Phúc. Phúc chết, Chỉnh theo con nuôi
Phúc là Hoàng Đình Bảo. Sau khi Kiêu binh đảo chánh ở Bắc Hà, giết chết
Hoàng Đình Bảo thì Chỉnh lại theo Tây Sơn. Chỉnh đã đưa ra chiêu bài
“phù Lê diệt Trịnh”, đưa Bắc Hà sang một khúc quanh khác của lịch sử.
Năm 1777, ông cử Nguyễn Lữ đem quân vào Nam tiêu diệt quân chúa
Nguyễn, Nguyễn Ánh trốn thoát. Năm 1778, diệt được Đàng Trong, ông lên
ngôi lấy đế hiệu Thái Đức Hoàng Đế. Vua Thái Đức, chia vùng đất phía Nam
ra ba phần:
- Từ Hải Vân ra bắc, thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
- Gia Định, miền Nam thuộc về Đông Định vương Nguyễn Lữ.
- Nguyễn Nhạc đóng ở Qui Nhơn, xưng Trung ương Hoàng đế.
Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc, tiêu diệt trọn quân chúa
Trịnh, vua Thái Đức gặp vua Lê, tuyên bố: “Họ Trịnh chuyên quyền, chúng
tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà của
Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của nhà Lê thì một tấc chúng
tôi cũng không tưởng...”. Tiếc thay, sau đấy ông và vua Quang Trung,
anh em lại bất hòa, ông lại cầu an hưởng lạc nên lực lượng của ông yếu
dần, cuối năm 1788, ông từ bỏ đế hiệu Thái Đức, tự xưng là Tây Sơn vương
và chỉ xin giữ Quy Nhơn mà thôi.
Năm 1793, Nguyễn Ánh vây thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc viết thư cầu
cứu Nguyễn Quang Toản, khi đuổi được quân chúa Nguyễn, Thái uý của Quang
Toản là Phạm Công Hưng kê khai tài sản, thu lấy giáp đinh, Nguyễn Nhạc u
uất quá bị bịnh mà chết.
Nguyễn Nhạc làm vua xưng hiệu Thái Đức hoàng đế 11 năm (1778-1788),
xưng Tây Sơn vương 5 năm (1789-1793). Con là Nguyễn Bảo nối nghiệp,
được vua Cảnh Thịnh phong Hiếu Công, sau này bị Gia Long bắt giết.
Cảm niệm: Thái Đức Hoàng Đế
Khắp nơi loạn lạc cảnh điêu linh!
Nguyễn Nhạc, lo toan tự khởi binh
Bình định trời Nam, tha thiết nghĩa
Lo lường đất Bắc, chứa chan tình
Anh em thân thiện, huy hoàng quá!
Ruột thịt bất hòa, lủng củng kinh!
Chúa Nguyễn hăm he, Tây hỗ trợ
Địch công dồn dập, khó tồn sinh!
Nguyễn Lộc Yên
0 nhận xét:
Đăng nhận xét