Nguyễn Xuân Nghĩa
Đáng lẽ, văn học hải ngoại đã có một tác giả độc đáo. Đó là Võ Hoàng.
Nhà văn Võ Hoàng
Nhưng,
anh không muốn vậy. Và định mệnh lẫn sự hẩm hiu của văn học thời loạn
cũng chiều lòng anh. Võ Hoàng trở thành một kháng chiến quân đã hy sinh
vào một ngày tháng Tám năm 1987. Tôi viết những giòng này để nhớ tới Võ
Hoàng như một nhà văn và một người anh em...
Tôi gặp Võ Hoàng trước khi biết đến và gia nhập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, để rồi cùng anh tham gia tổ chức này. Gặp anh, tôi biết mù mờ rằng Võ Hoàng Oanh sinh năm 1952 tại Phú Quốc, gia nhập Hải quân và bị tù cải tạo. Mù mờ vì anh em gặp nhau lúc đó thì có bao giờ hỏi han mấy chi tiết vớ vẩn về cuộc đời? Sau này mới biết rõ hơn và quý trọng nhau hơn. Qua Lý Khánh Hồng, tôi gặp Võ Hoàng khi mình mới từ bên Pháp đến Mỹ. Lúc đó, vào mùa Thu năm 1982, cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lôi Tam và Lý Khánh Hồng, Võ Hoàng thực hiện tạp chí và cơ sở xuất bản Nhân Văn. Thời đó, trong sự đổ vỡ chung của niềm tin lẫn nỗi hoang mang trên cõi tạm dung, Nhân Văn thực sự đã có những đóng góp không nhỏ về cả mặt văn học lẫn lý luận.
Tôi gặp Võ Hoàng trước khi biết đến và gia nhập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, để rồi cùng anh tham gia tổ chức này. Gặp anh, tôi biết mù mờ rằng Võ Hoàng Oanh sinh năm 1952 tại Phú Quốc, gia nhập Hải quân và bị tù cải tạo. Mù mờ vì anh em gặp nhau lúc đó thì có bao giờ hỏi han mấy chi tiết vớ vẩn về cuộc đời? Sau này mới biết rõ hơn và quý trọng nhau hơn. Qua Lý Khánh Hồng, tôi gặp Võ Hoàng khi mình mới từ bên Pháp đến Mỹ. Lúc đó, vào mùa Thu năm 1982, cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lôi Tam và Lý Khánh Hồng, Võ Hoàng thực hiện tạp chí và cơ sở xuất bản Nhân Văn. Thời đó, trong sự đổ vỡ chung của niềm tin lẫn nỗi hoang mang trên cõi tạm dung, Nhân Văn thực sự đã có những đóng góp không nhỏ về cả mặt văn học lẫn lý luận.
Vào
năm 1982, chúng tôi gặp nhau ở đó cùng một số văn hữu khác và tôi giật
mình ở con người Võ Hoàng. Anh ít nói, thường có cái vẻ miễn cưỡng của
người hiện diện ở một nơi không nên. Anh có cái vẻ miễn cưỡng của kẻ đã
lỡ sống sót sau một thảm kịch lớn cho những người kia, những người không
may đã khuất.
Nói
về cái tên Oanh của anh, chúng tôi luận bàn về hai chữ chiến tranh và
hòa bình. Tên anh không có cái nghĩa lãng mạn của một giống chim, mà là
tiếng chuyển động ầm ầm. Của xe nhà vua như tôi nói đùa, hoặc, nói trong
tiếng cười kín đáo của Võ Hoàng, tiếng chiến xa. Võ Hoàng là người kỳ
tài trong số những người tôi đã được gặp. Viết ra điều mình đã nghĩ từ
bao lâu nay, tôi lại thấy ngậm ngùi.
Anh
viết Trong lòng cách mạng để ghi lại kỷ niệm ở quê nhà, những điều mắt
thấy, tai nghe (và cả tay làm) sau ngày 30 tháng Tư 75. Anh vượt biên
năm 1978 đến Úc sau khi đã lao vào hoạt động mệnh danh "Phục quốc" ở quê
nhà: tù cải tạo ra, anh đi rải truyền đơn cho tới khi bị truy lùng thì
phải chạy. Đọc Trong lòng cách mạng, người ta có thể lờ mờ đoán ra điều
đó. Qua Góc bể bên trời, Võ Hoàng viết về chuyến vượt biên ly kỳ của
mình thì ít mà về thân phận lưu đày của chúng ta thì nhiều. Đọc tác
phẩm, ta càng hiểu đứa con của Phú Quốc là tay đi biển thành thạo, và
càng thấy ở Võ Hoàng những dấu hiệu của một tài năng lớn, mà có lẽ anh
cũng chẳng biết, hoặc bất cần. Ở anh, chỉ thấy toát ra một sự cô đơn.
Hai
tập truyện Măng đầu mùa và Đất lạ viết cùng Tưởng Năng Tiến có thể phản
ảnh những trăn trở đó của anh khi phải sống đời tỵ nạn. Thân ở đây mà
hồn cứ như ở nơi đâu xa lắc. Gia đình anh vượt biên sau anh. Anh mừng vì
đoàn tụ với gia đình nhưng vẫn bơ vơ vì chưa đoàn tụ với quê hương.
Thấy gia đình tới nơi yên lành rồi thì Võ Hoàng thở ra nhẹ nhõm: đã có
thể lại lao vào cuộc khác, để trở về.
Võ
Hoàng có lối viết của một nhà văn miền Nam, với cái nhìn sắc bén thâm
trầm của người miền Trung. Hãy đọc lại cuốn truyện dài Góc bể bên trời,
hoặc truyện ngắn Khách thập phương trong tập truyện Đất lạ, cái đoạn mô
tả cảnh một vị sư rót ra ba chung trà xếp thành hình chữ "phẩm" để mời
khách, thì ta sẽ thấy nét tinh tế đó trong văn Võ Hoàng. Lối viết với
đầy đối thoại, cứ tưởng như rời rạc, nhát gừng, mà bên trong đầy ắp
những suy tư chỉ chực trào ra ngoài, những cuồng nộ không thể nguôi
ngoai và sẽ bùng ra thành hành động.
Võ
Hoàng thạo nghề sông nước, rất giỏi võ, khéo tay, có thể làm thợ nề thợ
mộc như đã học từ bé. Anh vẽ thần sầu, làm thơ cũng hay mà viết nhạc
cũng giỏi. Những anh em làm báo mà có Võ Hoàng bên cạnh là thấy nhẹ
người: anh có thể cưa đẽo nhà dưới làm kệ sách rất mỹ thuật, rồi lên nhà
trên giúp cho tờ báo về mọi mặt. Nơi này cần cái vignette là anh ngoáy
bút ra một cái, nơi kia cần "mi" lại cho chỉnh, thời đó chúng ta chưa
dùng chữ lay-out, là cũng có Võ Hoàng. Thời đó nữa, chúng ta còn phải
dùng cái máy "Varytyper" nặng như cái cùm, in bài ra giấy còn phải lấy
bút bỏ dấu, Võ Hoàng bỏ dấu rất gọn. Anh ít nói, bập bập điếu thuốc sau
cặp kính hấp háy, nhưng khi nói là có giọng duyên dáng mà không ác, và
làm gì cũng có vẻ như sợ làm phiền người khác. Võ Hoàng là người cực kỳ
tài hoa mà lúc nào cũng có vẻ vụng về, nếu ta không để ý thấy đôi mắt
rất sáng của anh. Anh nói ít mà hiểu nhiều bên sau cái dáng quê kệch của
người mới ra tỉnh. Anh chí tình và tận tụy với trách nhiệm, bất kể lớn
nhỏ. Ông Hoàng Cơ Minh sau này trông cậy rất nhiều nơi anh là cũng phải.
Chúng
tôi kết bạn với nhau như vậy, cho tới ngày Võ Hoàng gia nhập Mặt Trận
và thôi gọi nhau là anh em mà là "chiến hữu". Anh đã tìm được con đường
muốn đi ngay từ khi bỏ nước ra đi. Đó là con đường về. Võ Hoàng trở
thành "kháng chiến quân" khi đi vào chiến khu của Mặt Trận từ tháng Năm,
năm 1984. Gặp lại anh sau đó, trong một vài lần hãn hữu và không khí
kém vui của một sự rối loạn bên trong, tôi gặp một con người khác.
Bắc Phong có viết một bài thơ tặng Võ Hoàng, trong đó có câu mà chúng tôi nhớ mãi:
Đi, hành trang có niềm tin,
Quyển thơ Nguyễn Trãi và hình vợ con.
Quyển thơ Nguyễn Trãi và hình vợ con.
Sau
này, rất lâu sau này, vào tháng Sáu năm 1989, khi đi tới tận cùng của
chiến khu để tìm lại tông tích của anh, tôi gặp lại và đi lại con đường
anh mô tả trong bài ca Thế kỷ này là thế kỷ của chúng ta mà anh sáng tác
trong đó:
Cách mạng, đường dài,
Người đi như con nước miệt mài.
Đổ mồ hôi thành dòng,
Loang theo dấu chân thành những con đường làm nên kháng chiến,
Ta đi, ta đi, ta đi...
Người đi như con nước miệt mài.
Đổ mồ hôi thành dòng,
Loang theo dấu chân thành những con đường làm nên kháng chiến,
Ta đi, ta đi, ta đi...
Con
đường đó vô cùng gian nan, nguy hiểm, và đòi hỏi một ý chí sắt thép, mà
đổ mồ hôi thành dòng mới chỉ là một phần rất nhỏ của những gian truân.
Phần còn lại, trên đoạn đường Mặt Trận gọi là "Đông tiến", mới có những
đòi hỏi khắc nghiệt hơn, kể cả đổ máu. Võ Hoàng đã hy sinh như vậy,
trong một cuộc quần thảo bi thảm mà hào hùng ít ai có thể mường tượng
ra.
Phó đề đốc Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Hoàng Cơ Minh.
Vào
chiến khu của Mặt Trận, Võ Hoàng trở thành một người cộng sự thân tín
của ông Hoàng Cơ Minh. Anh thoát xác đến anh em Nhân Văn và cả tôi,
những anh em chí thiết khi anh chưa gia nhập Mặt Trận, cũng không ngờ
nổi. Tinh thần kỷ luật nơi đó biến anh thành con người khác, bình thản,
nhẫn nhục và lầm lỳ như một mũi tên chỉ chực bắn ra phía trước. Mũi tên
bay đi không nhờ lực đẩy ở đằng sau, mà vì sức hút của mục tiêu ở đàng
trước, một mục tiêu mà mọi người chúng ta đều mơ ước.
Khi
Võ Hoàng viết một lá thư kêu gọi các văn hữu cùng tham gia vào việc đấu
tranh, rất nhiều anh em ngoài này không hiểu được tâm tư và ý chí đó
của anh, nên có thể thấy ngỡ ngàng, có khi khó chịu. Anh sắt thép quá,
trông chờ nhiều quá, chỉ vì đòi hỏi quá nhiều ở chính anh. Và cái đòi
hỏi sau cùng, là sự hy sinh tuyệt đối nhất, anh cũng không từ nan. Nếu
có đọc lại hoặc nhớ lại lời kêu gọi đó của Võ Hoàng, vào mùa Thu năm
1984, và biết rằng anh sẽ hy sinh đúng ba năm sau, chúng ta sẽ thông cảm
với anh hơn, và thương tiếc nhiều hơn. Hình như tôi đang viết những
dòng này để kêu gọi sự thông cảm đó.
Nếu
như Võ Hoàng còn sống, và trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước, chắc
chắn anh vẫn tiếp tục đấu tranh, nhưng với những phương tiện mới trong
một phương thức mới, một phương thức đòi hỏi sự sáng tạo, linh động và
tính kiên nhẫn lẫn bao dung mà anh có thừa. Và văn học hải ngoại chắc
chắn vẫn có Võ Hoàng.
Nếu
đất nước ta thanh bình, điều chưa hề có từ bao lâu nay rồi, một con
người tài hoa và lý tưởng như Võ Hoàng có lẽ đã cống hiến rất nhiều cho
văn học và nghệ thuật nước nhà. Với sức làm việc kinh hồn và óc nhận xét
tinh tế cùng khả năng diễn tả rất đa diện, Võ Hoàng đã có thể là một
nhà văn có ảnh hưởng trong chúng ta ở nơi đây. Anh mất quá sớm, khi mới
35 tuổi, vào lúc sung sức nhất, sáng tạo nhất, để lại một sự tiếc thương
khó nguôi ngoai trong bằng hữu, và một tiếng thở dài bất tận trong
chúng ta, về hai chữ vận nước.
Chúng
ta phao phí quá nhiều người tài giỏi như vậy, trong bao nhiêu năm trời,
trên cả hai miền đất nước, ra tới bên ngoài này... Nghĩ vậy, làm sao
mình không khỏi nghiến răng phẫn hận?
Nguyễn Xuân Nghĩa
0 nhận xét:
Đăng nhận xét