Tối hậu thư Potsdam mà Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa gởi cho Nhật ngày
26-7-1945, giao cho quân đội Anh và quân đội Trung Hoa giải giới quân
đội Nhật ở Nam và Bắc vĩ tuyến 16 sau khi Nhật đầu hàng. Tối hậu thư
không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải
giới, tạo ra một khoảng trống hành chính và chính trị tại Đông Dương, là
cơ hội thuận tiện cho Pháp vận động với Anh và Trung Hoa trở lại tái
chiếm Đông Dương.
1. Quân Anh đến Nam Kỳ
Tại Nam Kỳ, sau khi quân Nhật đầu hàng ngày 14-8-1945, một toán lính
Pháp nhảy dù xuống vùng Tây Ninh ngày 22-8-1945, trong đó có đại tá Jean
Cédile, đại diện Pháp tại Nam Đông Dương. Quân Nhật bắt được, đưa về
Sài Gòn, tạm giữ ở phủ toàn quyền Pháp cũ. Tuy vậy, hai ngày sau (24-8),
quân Nhật cho phép Cédile tiếp xúc với người Pháp ở Sài Gòn. Cédile lập
tức thành lập ngay một “Uỷ ban thông tin” để tìm biết tin tức địa
phương. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 153.)
Thi hành tối hậu thư Potsdam, toán đầu tiên trong phái bộ quân sự Anh
giải giới quân đội Nhật, đến Sài Gòn ngày 6-9-1945, nghĩa là sau ngày
Lâm ủy Hành chánh Nam bộ Việt Minh (LUHCNB) nắm quyền ở Sài Gòn và HCM
thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 ở Hà Nội.
Ngày 13-9, tướng Douglas Gracey, chỉ huy lực lượng Anh, phụ trách việc
giải giới quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, có mặt tại Sài Gòn trong lúc
tình hình càng ngày càng căng thẳng. Gracey ra lệnh cho LUHCNB phải rời
dinh toàn quyền. Nhà cầm quyền Việt Minh (VM) phản đối. Quân Anh liền
chiếm trụ sở của LUHCNB. Việt Minh kêu gọi dân chúng biểu tình chống
Anh, tố cáo Anh và Pháp vi phạm nền độc lập của Việt Nam.
Những tù binh Pháp được người Nhật thả ra, khiêu khích người Việt nên bị
đánh trả. Jean Cédile yêu cầu Gracey can thiệp để cứu nguy người Pháp.
Ngày 19-9-1945, Douglas Gracey ra Tuyên cáo của Uỷ ban Kiểm soát Đồng
minh, nhận trách nhiệm duy trì trật tự, cấm tổ chức biểu tình, cấm hội
họp, cấm mang võ khí, trừ những người có phép, thiết quân luật từ 9 giờ
tối hôm trước đến 5 giờ sáng hôm sau, lên án tử hình tất cả những kẻ
cướp và phá hoại.
Ngày 21-9-1945, trong khi VM ra lệnh dân chúng Sài Gòn-Chợ Lớn đình công
bãi thị, thì tướng Gracey thả và trang bị võ khí cho 1,400 tù binh Pháp
còn bị giam giữ. Nhân cơ hội nầy, binh sĩ Pháp khiêu khích, tấn công
người Việt. Cédile, chỉ huy quân Pháp cướp chính quyền ở Sài Gòn đêm 22
rạng 23-9-1945, chiếm các đồn cảnh sát, công an, ngân khố, tòa đô chánh.
Lâm uỷ Hành chánh Nam bộ (gồm đa số là VM cộng sản) bỏ trốn.
Cũng trong ngày 23-9-1945, VM thành lập Uỷ ban Kháng chiến Nam bộ
(UBKCNB) do Trần Văn Giàu làm chủ tịch, và Uỷ ban Kháng chiến Sài Gòn
Chợ Lớn do Nguyễn Văn Tư làm chủ tịch. Uỷ ban Kháng chiến Nam bộ ra
tuyên cáo, vận động dân chúng chống Pháp. Nhà cầm quyền VM ở Hà Nội liền
lên tiếng tán thành và kêu gọi toàn quốc chi viện cho Nam bộ kháng
chiến. (Tài liệu đảng CSVN gọi ngày 23-9-1945 là ngày “Nam bộ kháng
chiến”.)
Tại Sài Gòn, VM tấn công nhà máy điện, bắt cóc và thủ tiêu người Pháp.
Ngày 25-9-1945, VM đưa người bao vây trú khu Héraud của người Pháp (có
sách viết Hérault) ở Tân Định (trên đường Trần Nhật Duật sau năm 1954).
Việt Minh giết một số người Pháp, bắt đi khoảng 50 người, rồi giết luôn.
(Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A: 1939-1946, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 269.) Hỗn loạn tiếp diễn trong nhiều ngày.
Ngày 26-9-1945, tại Sài Gòn, trung tá Peter Dewey, trưởng toán O.S.S.
404 (Hoa Kỳ) ở nam Đông Dương, bị bắn chết khi từ phi trường về trụ sở
O.S.S.. Phía VM đưa ra lý do là vì tướng Gracey không cho phép Dewey
trương cờ Mỹ khi di chuyển, nên Dewey bị tưởng lầm là người Pháp và bị
bắn. Dewey từ hậu cứ của toán OSS 404 ở Tích Lan (Ceylon tức Sri Lanka),
đến Sài Gòn ngày 2-9-1945 theo kế hoạch Embarkment, để điều tra tội
phạm chiến tranh.
Nhờ Douglas Gracey (Anh) làm trung gian, Jean Cédile (Pháp) gặp các lãnh
tụ UBKCNB ngày 2-10-1945. Hai bên đồng ý tạm thời ngưng các cuộc khiêu
khích nhau. Tuy nhiên, khi cuộc nói chuyện đi sâu vào nội dung chi tiết,
thì lập trường hai bên quá khác biệt. Cédile đòi UBKCNB trả lại các con
tin và thi hài của cố trung tá Dewey. Việt Minh đòi điều kiện tiên
quyết là Pháp phải công nhận Việt Nam độc lập. Ngày 5-10-1945, VM đòi
tiếp là phải trở lại tình trạng trước ngày 23-9-1945, trả lại thẩm quyền
của Lâm uỷ hành chánh, cảnh sát, an ninh công cộng, giải giới và tập
trung người Pháp để người Việt bảo vệ, và ngưng tất cả các cuộc chuyển
quân đến Sài Gòn.
2. Anh giúp Pháp tái chiếm Nam Kỳ
Pháp thảo luận với VM có thể nhằm kéo dài thời gian cho công việc chuẩn
bị. Ngày 3-10-1945, chiến hạm Pháp có tên là Richelieu đến Vũng Tàu, đem
theo một toán 55 biệt kích quân và hai đại đội bộ binh gồm 6 sĩ quan và
100 binh sĩ Pháp. Hai ngày sau (5-10-1945), trung tướng Philippe
Leclerc de Hauteclocque (Leclerc) đến Sài Gòn, đóng bản doanh ở dinh
toàn quyền.
Từ tháng 10 đến tháng 12-1945, bảy thương thuyền Hoa Kỳ chở từ 14,000
đến 24,000 binh sĩ Pháp đến Việt Nam, nghĩa là khoảng 40% lực lượng Pháp
ở Việt Nam lúc đó. (Patricia K. Lane, “Éléments sur la mise en oeuvre de la politique américaine envers l'Indochine, 1940-1945”, đăng trong Les Cahiers de l'Institut D'Histoire Du Temps Présent,
Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng
6-1996, tr. 33.) Quân Pháp còn được không vận đến Phnom Penh (Cambodia)
và Pakse (Laos).
Trong lúc đó, tại London, thủ đô Anh, hai đại diện chính phủ Anh và Pháp gặp nhau ngày 8-10-1945, ký Tạm ước hành chánh và tư pháp
phía nam vĩ tuyến 16 ở Việt Nam. Ngày hôm sau (9-10-1945), chính phủ
Anh tuyên bố: 1) Yểm trợ Pháp tái chiếm Việt Nam. 2) Chấp nhận chính
quyền Pháp ở Sài Gòn. 3) Giao quyền cai trị Nam vĩ tuyến 16 cho Pháp.
(Chính Đạo, sđd. tt. 275-276.)
Tức thì, cuộc đàm phán ở Sài Gòn giữa VM và Pháp đổ vỡ ngày 10-10-1945.
Do lực lượng mới được tăng cường, quân Anh phá vỡ vòng vây của VM, bắt
đầu mở rộng vòng kiểm soát ở Sài Gòn, chiếm Gò Vấp (ngày 12-10), Thủ Dầu
Một, Biên Hòa (ngày 23-10).
Lực lượng VM cộng sản chạy về vùng nông thôn, dùng du kích và khủng bố
lẻ tẻ tấn công Pháp. Ngược lại, trung tướng Leclerc tung hai cánh quân
ra trận, đánh chiếm Mỹ Tho ngày 25-10. Quân Pháp lần lượt chiếm Gò Công
(28-10), Vĩnh Long (29-10), Cần Thơ (30-10).
Cuối cùng, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, đến Sài Gòn
chiều ngày 30-10-1945. Việc đầu tiên là ông ra sắc lệnh thành lập Hội
đồng Cao uỷ Liên bang Đông Dương. Trong khi đó, quân Nhật được tập trung
ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) để đợi phương tiện về nước.
Pháp tăng cường thêm sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (BBTĐ). Từ đây Pháp
tung quân đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ và cao nguyên Trung Kỳ. Ngày
5-2-1946, Leclerc tuyên bố trong một cuộc họp báo tại Sài Gòn là đã hoàn
tất tái chiếm Nam Kỳ và nam Trung Kỳ. (Philippe Devillers, sđd. tr.
176.)
Nhận thấy tình hình đã khả quan về phía Pháp, ngày 4-2-1946, cao uỷ
D'Argenlieu ký nghị định thành lập Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ (Conseil
consultatif de Cochinchine) do Uỷ viên Cộng hòa Pháp tại Nam Kỳ làm chủ
tịch, lúc đầu gồm 4 hội viên người Pháp, 8 hội viên người Việt, mỗi năm
họp ít nhất hai lần.
Việt Minh rút lui dần dần, mở cuộc tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà
trống. Pháp chiếm được các thành phố và các vùng nông thôn phụ cận,
trong khi VM lẫn trốn trong các vùng sâu (bưng biền), lập căn cứ bí mật,
và từ đó phóng ra những cuộc khủng bố bất ngờ. Đặc biệt VM lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, xã hội xáo trộn, tiếp tục chủ trương thủ tiêu
những thành phần dân tộc đối lập, những người không theo VM cộng sản
hoặc hợp tác với Pháp.
Từ ngày 9-10-1945, bộ Ngoại giao Anh thảo luận với đại sứ Pháp tại Anh
để bàn chuyện chuyển giao chính quyền ở Nam Đông Dương, vì chính phủ
đảng Lao Động mới cầm quyền ở Anh, muốn rút quân ra khỏi Đông Dương.
Ngày 28-1-1946, tướng Douglas Gracey chính thức bàn giao thẩm quyền cho
các giới chức Pháp, và quân lính Anh chính thức chấm dứt nhiệm vụ kể từ
không (0) giờ ngày 5-3-1946, để lại nhiều trang thiết bị cho quân Pháp.
3. Pháp tiến quân ra Bắc Kỳ
Về ngoại giao, lúc đó VNDCCH, Pháp và Trung Hoa tạo thành thế tam giác
đặc biệt trên sân khấu chính trị Bắc Kỳ. Tại Hà Nội ngày 28-9-1945, Hồ
Chí Minh (HCM) gặp gỡ lần đầu các đại diện Pháp là tướng Marcel
Alessandri (được cao uỷ D'Argenlieu cử làm đại diện ở Bắc Kỳ ngày
15-9-1945) và Léon Pignon (giám đốc chính trị và hành chính). Ngày nầy
cũng là ngày diễn ra lễ đầu hàng của quân đội Nhật, tại Hà Nội. Hơn một
tuần sau, HCM gặp lại hai người Pháp vừa kể lần thứ hai.
Sau hai lần thăm dò, ngày 15-10-1945, HCM chính thức gặp Jean Sainteny,
người vừa được thủ tướng De Gaulle bổ nhiệm làm Đại diện chính phủ Pháp
tại Bắc Kỳ (2-10-1945). Trong cuộc họp báo ngày 20-10-1945, HCM tuyên bố
Pháp phải thừa nhận nền độc lập Việt Nam thì mới có thể tiếp tục nói
chuyện.
Trong lúc đó, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, đến Sài
Gòn ngày 30-10-1945. Hồ Chí Minh gặp lại Sainteny ngày 1-12-1945 và sau
đó HCM ngỏ ý muốn gặp D'Argenlieu. Người Pháp bí mật giao cho VM ngày
7-12-1945, một bản dự thảo hiệp ước giữa hai bên, để VM nghiên cứu.
Cuộc mật đàm giữa hai bên chưa đi đến kết quả, thì chính phủ lâm thời
HCM giải tán, thay bằng chính phủ Liên hiệp ngày 1-1-1946. Sau cuộc bầu
cử Quốc hội lập hiến ngày 6-1-1946, chính phủ Liên hiệp kháng chiến được
thành lập ngày 2-3-1946. Chính phủ nầy tạm thời giúp HCM vượt qua những
khó khăn nội bộ để lo việc ngoại giao, nhưng Pháp thấy rõ sự chia rẽ
giữa VM với các đảng chính trị Việt Nam.
Tại Nam Kỳ (Nam Bộ), các giới chức Pháp đã được người Anh chính thức bàn
giao thẩm quyền ngày 28-1-1946, và người Anh tuyên bố chấm dứt nhiệm vụ
tại miền Nam vĩ tuyến 16 kể từ không (0) giờ ngày 5-3-1946. Pháp tái
chiếm xong miền Nam, liền nôn nóng tiếp tục công việc tái chiếm Bắc Kỳ.
Về phía Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng cũng có ý định rút
quân Trung Hoa từ Việt Nam về nước, nhưng thấy Pháp quá nôn nóng tái
chiếm Bắc Kỳ, nên lợi dụng vấn đề Bắc Kỳ để làm giá mặc cả với Pháp.
Về phía VNDCCH, HCM và VM dùng vàng quyên được trong “tuần lễ vàng”
(phát động từ ngày 7-9-1945), hối lộ cho các tướng lãnh Trung Hoa nhằm
hai mục đích: Thứ nhứt mua võ khí của các tướng Trung Hoa. Số võ khí nầy
do các tướng Trung Hoa tịch thu được khi giải giới quân Nhật, bán cho
VM. Thứ hai, thúc đẩy các tướng Trung Hoa rút quân về nước càng sớm càng
tốt, chấm dứt luôn việc quân Trung Hoa hậu thuẫn các đảng Việt Quốc,
Việt Cách, để VM dễ tiêu diệt các đảng phái nầy.
Tuy nhiên cuộc thương thuyết với Pháp rất khó khăn, vì Pháp biết VM đang
chịu áp lực của Trung Hoa và sự chống đối của các đảng phái dân tộc,
đưa đến việc HCM phải lập chính phủ liên hiệp. Vì vậy, Pháp tỏ ra cứng
rắn trong những đòi hỏi của Pháp.
Ngày 16-2-1946, tức sau cuộc bầu quốc hội (6-1-1946), nhưng trước khi
chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập (2-3-1946), HCM cho
Sainteny biết rằng ông ta đồng ý bỏ việc đòi hỏi hai chữ “độc lập”, đổi
bằng chữ “tự trị”, đồng ý gia nhập khối Liên Hiệp Pháp và để quân Pháp
thay thế quân Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16. Lúc đó, tướng Lư Hán
đang có mặt tại Hà Nội, muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Việt Nam, nên
Lư Hán trực tiếp khuyến cáo HCM nhượng bộ Pháp. (Stein Tonnesson, “La
paix imposée par la Chine: l'accord Franco-vietnamien du 6 mars 1946”,
đăng trong Les Cahiers de l'Institut D'Histoire Du Temps Présent, Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996, tr. 48.)
Trong lúc đang khủng hoảng, sáng ngày 27-2-1946, HCM bất ngờ xin gặp gấp
cựu hoàng Bảo Đại, cố vấn chính phủ HCM, lúc đó đang ở Hà Nội, và HCM
mời cựu hoàng thay ông ta điều khiển chính phủ. Sau khi tham khảo ý kiến
của Trần Trọng Kim và một số người quen thân ở Hà Nội, vào buổi chiều
cùng ngày, cựu hoàng Bảo Đại báo cho HCM biết cựu hoàng sẵn sàng nhận
lời, thì HCM lại xin rút lui ý kiến. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam,
California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tt. 230-233. Theo Philippe Devillers,
sđd. tr. 216, thì cuộc gặp nầy diễn ra ngày 22 hay 23-2-1945. Xem thêm:
Stein Tonnesson, bài đã dẫn, sđd. tr. 33.)
Ngày nầy (27-2-1946) cũng là ngày đô đốc D'Argenlieu vội vàng phát động cuộc hành quân Bentré,
dầu Pháp chưa chính thức ký hiệp ước với Trung Hoa, chuyển 21,000 quân
từ miền Nam ra Hải Phòng, nhằm tái chiếm Bắc Kỳ. Pháp muốn sớm chiếm lại
Bắc Kỳ trước khi nhà cầm quyền VM được củng cố và trước khi mùa mưa đến
ở đất Bắc từ tháng 5 hằng năm.
Ngày hôm sau, hai bên Pháp - Trung Hoa ký kết hiệp ước Trùng Khánh
ngày 28-2-1946 giữa ngoại trưởng Trung Hoa là Vương Thế Kiệt (Wang
Shih-chiek) và đại sứ Pháp tại Trung Hoa là Jacques Meyrier, theo đó
Trung Hoa chịu rút quân ra khỏi Việt Nam từ ngày 1 đến 15-3, và chậm
nhất là ngày 31-3-1946, quân Pháp thay thế quân Trung Hoa ở phía bắc vĩ
tuyến 16; ngược lại, Pháp trả về cho Trung Hoa các tô giới Pháp ở Thượng
Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Trung Hoa thiết lộ
Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương, miễn thuế người Hoa ở
Hải Phòng, và người Hoa chuyên chở hàng hóa ngang qua Bắc Bộ sẽ khỏi
phải chịu thuế. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, tái bản kỳ 2, Sài Gòn: 1970, tr. 300.)
Chiều ngày 5-3-1946, hạm đội Pháp xuất hiện ở ngoài khơi Hải Phòng. Sáng
sớm hôm sau, ngày 6-3-1946, Sư đoàn 9 bộ binh thuộc địa Pháp (9è
Division d'infanterie coloniale), dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean
Valluy, bắt đầu đổ bộ ở Hải Phòng.
Thấy bị lâm nguy, sợ mất quyền lực và bị tiêu diệt, HCM bỏ qua lời thề ngày 2-9-1945, vội vàng ký với Jean Sainteny thỏa ước Sơ bộ chiều ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, chính thức thừa nhận quân đội Pháp trở lại Việt Nam.
Về phía Pháp, Pháp trở lại con đường cũ mà các đô đốc Pháp đã đến xâm
lăng Việt Nam vào thế kỷ 19: đánh chiếm Sài Gòn, các tỉnh Nam Kỳ, tiến
ra Hà Nội, rồi toàn cõi Việt Nam.
(Toronto, 28-08-2015)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét