Luật Sư Vi Katerina Trần (Hình: Vi K. Trần cung cấp) |
Bà Leslie Morgan Steiner, một nhà văn, một người cổ vũ cho việc lên tiếng chống lại tình trạng bạo hành gia đình tại Hoa Kỳ, chính là người đã trải qua nhiều năm sống trong cảnh bị ngược đãi, hành hạ, và không biết bao nhiêu lần bà bị người yêu kê súng vào đầu dọa giết.
Thế mà, vào thời điểm
đó, bà đã không bỏ đi. Tại sao vậy? “Rất đơn giản: Tôi không biết anh ta
đang bạo hành tôi. Thậm chí khi anh ta chĩa súng vào đầu tôi, đẩy tôi
xuống sàn, dọa giết hết những con chó tôi yêu thương, đổ cà phê lên đầu
tôi khi tôi đang mặc bộ đồ chuẩn bị cho một buổi phỏng vấn quan trọng,
tôi vẫn không hề nghĩ rằng mình bị hành hạ,” nhà văn Steiner trả lời.
Điều đáng nói ở đây là
bà Steiner, vào những ngày tháng đó, là một cô gái tốt nghiệp cử nhân
văn chương đại học Harvard, có bằng quản trị kinh doanh trường Wharton
của đại học UPenn nổi tiếng ở Pennsylvania.
Như đã phân tích, bạo hành không chừa bất kỳ ai. Nhưng vì sao lại có những người
chồng “thích” đánh đập, chửi bới vợ? Vì sao lại có những người vợ cứ
chấp nhận cuộc sống địa ngục như thế mà không mạnh dạn bước ra?
Những vấn đề trên được
Tiến Sĩ Tâm Lý Trị Liệu Lâm Sàng Suzie Matsuda, chuyên viên chẩn định
và trị lieu tâm bệnh thuộc Sở Y Tế Los Angeles, và Luật Sư Vi Katerina
Trần, đang làm việc cho một văn phòng luật ở San Jose, chia sẻ, phân
tích dưới góc nhìn của những người chuyên môn từng làm việc với nạn nhân
của bạo hành.
Vì sao lại có những người chồng “thích” đánh đập, chửi bới vợ?
Vì sao lại có những người chồng “thích” đánh đập, chửi bới vợ?
Bà Matsuda cho rằng có ba yếu tố chính đưa đến hành động này.
"Đầu tiên, người bạo
hành người khác, phần nhiều, đã nhìn thấy những gương bạo hành trong gia
đình hoặc chính họ là người bị bạo hành. Vì thế, theo năm tháng, những
trải nghiệm này trở thành một phần của cách sống, cách nhìn của họ," bà
giải thích.
“Yếu tố thứ hai là xã hội chấp nhận chuyện gia đình bạo hành lẫn nhau,” bà nói tiếp.
Điều này được nhìn
thấy rõ từ những người lớn lên ở Việt Nam, nơi mà việc chồng đánh vợ
được xem như là chuyện riêng của gia đình và không mấy ai muốn can thiệp
vào, trừ phi có giết người đổ máu.
Yếu tố thứ ba là vấn đề luật pháp.
Bà phân tích, “Nghiên
cứu cho thấy có những người quen bạo hành ở nơi họ sinh sống, nhưng khi
sang Hoa Kỳ, chỉ cần đánh vợ mà bị cảnh sát đưa đi tù một lần thôi thì
sau đó sẽ không có chuyện đánh đập nữa. Nhưng buồn hơn là không bị đánh
đập nhưng họ bị chửi, bị nhục mạ, bị coi họ như cái bàn cái ghế chứ
không phải con người.”
Ngoài ba yếu tố làm
cho người ta ngược đãi người khác như vừa kể trên, “còn có yếu tố thuộc
về tâm bệnh. Nghĩa là đây chính là người có những khủng hoảng tâm lý,
từng bị bạo hành trong quá khứ, nên cách mà họ học được, thấy được, quen
được là giận cá chém thớt,” bà nói.
Bạo hành không có sự thuyên giảm theo thời gian
Trong cái nhìn của một
người tiếp xúc nhiều với nạn nhân bị hành hạ, ngược đãi, Tiến Sĩ
Matsuda cho rằng, “Bạo hành đi theo một chu kỳ. Tức có những trường hợp,
người chồng bị bực bội, có sự bức xúc nào đó mà họ không giải quyết
được thì cho dù người vợ có làm đúng hay không làm đúng đi nữa cũng bị
ông ta bạo hành.”
“Cũng trong chu kỳ đó,
sau khi đánh đập, hành hạ xong thì người chồng có lúc cũng cảm thấy tội
lỗi, thấy mình làm điều đó không đúng, họ biết xin lỗi, mua quà, mua
hoa tặng vợ như một kiểu ăn năn. Trong tình cảnh đó, người vợ thường tha
thứ cho chồng. Nhưng tới một lúc khác, khi cơn của họ lên thì người
chồng lại chửi bới, hành hung người vợ trở lại, tức là một cái vòng lẩn
quẩn như vậy,” bà phân tích tiếp.
Tuy nhiên, nghiên cứu
cho thấy một thực trạng đáng buồn, đó là khi một ai đó đã nằm trong
trường hợp bạo hành, thì mức độ bạo hành chỉ ngày càng nguy hiểm hơn chứ
không hề giảm đi, và chu kỳ bạo hành ngày càng nhanh hơn, nhiều hơn.
Bà Matsuda nhớ lại,
“Trước đây tôi có một bệnh nhân từng là một cô giáo dạy Toán. Chồng chị
cũng là thầy giáo. Chị bị đánh ngay sau ngày đám cưới ở Việt Nam. Bị
đánh đến độ khi đến gặp tôi, chị đã mang bệnh ‘khủng hoảng hậu chấn
thương’ tức là những người dễ trở nên hồi hộp lo sợ một cách bất thường,
giấc ngủ của họ không được bình an, hay thấy ác mộng và không thể tập
trung, ngay cả khi tôi hỏi 2 cộng 2 là mấy chị cũng không biết, tức não
trạng chị ở trong tình trạng khủng hoảng và bất thường trầm trọng.”
Theo lời kể, khi sang
Mỹ, chị vẫn bị chồng đánh đập đến mức hai đứa con trai phải xúi chị trốn
vào ngày mà ba nó xách dao định đâm chị. Chị đã phải chạy trốn sang
tiểu bang California và sống dựa vào sự giúp đỡ của các tổ chức bảo vệ
người bị bạo hành.
Luật Sư Vi Katerina thì nhắc đến một thân chủ mà cô từng đại diện.
“Chị này tốt nghiệp
đại học ở Mỹ, đi làm cho quận hạt. Chị lấy chồng 23 năm. Theo lời chị kể
thì lúc đầu chồng chị có tính gia trưởng thôi. Nhưng từ khi ông bị mất
việc, ở nhà, chị trở thành lao động chính thì ông chồng lại trở thành
người bạo hành chị. Những năm đầu ông chỉ chửi bới, la mắng, cho đến một
ngày ông ta uống rượu, và cầm dao rượt chị. Chị và con trai trốn trong
phòng, ông ta đâm hơn 20 nhát dao vô cửa. Đó là biểu hiện của một sự tức
giận quá độ. Và đó cũng cho thấy mức độ ngược đãi của ông càng lúc càng
tang," vị luật sư kể.
Nạn nhân thường là người bị cô lập
Cả Luật Sư Vi Katerina
lẫn Tiến Sĩ Matsuda đều cho rằng: Dấu hiệu dễ nhìn thấy nhất ở người
chồng có “thói” bạo hành là không muốn người vợ tiếp xúc với ai hết. Thế
nên những nạn nhân này thường bị cô lập.
Cô Vi Katerina giải
thích, “Điểm chung nhất là người phụ nữ bị bạo hành thường coi người
chồng là điểm tựa lớn nhất của họ, chiếm phần lớn thời gian của họ, và
cuộc sống của họ trông chờ vô chồng nhiều lắm. Họ không có bạn bè thân
riêng, họ không có mối quan hệ rộng ở ngoài, họ chỉ có gia đình, và
người chồng mà thôi. Thành ra khi bị ngược đãi, họ không kiếm được ai để
tâm sự hay kể lể gì hết.”
Luật Sư Vi Katerina
chia sẻ thêm: “Những trường hợp bị ngược đãi mà tôi từng gặp thì người
lớn nhất khoảng 60 tuổi, nhỏ nhất khoảng 20 tuổi. Người nhỏ tuổi là
người mới qua, mới lấy chồng Việt kiều cũng dễ bị trở thành nạn nhân của
bạo hành gia đình.”
Theo cô, “Nhiều người
đàn ông lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người mới sang, lợi dụng tâm lý
người Việt Nam xem chuyện chồng đánh vợ là bình thường, nhất là người ở
quê hay xa thành phố, để về Việt Nam cưới vợ với mục đích có thể điều
khiển, khống chế được.”
“Với suy nghĩ như thế,
khi sang đây, người chồng không cho vợ đi học tiếng Anh, không cho đi
học lái xe; nếu cho học nghề thì thường là nghề làm nail và họ sẽ dùng
người than, người nhà của họ để đưa đi. Khi người vợ đi làm, có sự trao
đổi, tiếp xúc bên ngoài, nếu người chồng bắt đầu thấy có những điều họ
không thích thì họ dễ đánh vợ. Người vợ được bảo lãnh sang thường không
có gia đình, hoặc ít bạn bè, nên cũng khó kiếm được sự giúp đỡ,” Luật Sư
Vi phân tích.
Tiến Sĩ Tâm Lý Suzie Matsuda (Hình: Xuyến Đông cung cấp) |
Tâm lý chấp nhận hay buông xuôi của nạn nhân
Một phân tích tâm lý
mà Tiến Sĩ Matsuda đưa ra khiến người ta cảm thấy đau đớn, đó là, “Khi
mình đánh một con vật thì nó chạy trốn. Nhưng khi mình đánh nó nhiều quá
thì nó đứng tại chỗ cho mình đánh luôn, vì nó không còn khả năng tự vệ
nữa, nó coi như bỏ cuộc, đầu hàng luôn để mình tha hồ muốn làm gì làm.
Thì có nhiều nạn nhân đi vào tình trạng đó.”
Và để trả lời cho câu
hỏi mà người ngoài cuộc hay đặt ra là, “Tại sao bị vậy mà không dứt ra
được, không bỏ được, tại sao lại để cho bị đánh như vậy?” bà nói, “Mình
không ở trong hoàn cảnh đó nên mình không hiểu được não trạng của nạn
nhân. Bị bạo hành lâu quá họ mất hết sinh khí và mất cả ý chí để thoát
khỏi môi trường như vậy.”
Bà Matsuda nhận xét,
“Phải nhìn vấn đề qua lăng kính của nạn nhân chứ đừng đứng ở ngoài mà
nhìn vào để nói phải làm thế này thế kia. Cho nên, những người chuyên
môn sẽ giúp cho nạn nhân một kế hoạch trốn thoát an toàn, nếu trường hợp
đó trở nên nguy hiểm. Nhưng chỉ có nạn nhân mới biết được lúc nào an
toàn, lúc nào không an toàn để họ ra đi”.
Cũng theo bà, “Có khi
người bạo hành chính là những người rất thiếu tự tin, nhưng họ không nói
ra điều đó. Tuy nhiên, cách hành xử của họ dựa trên cái sợ trong tâm
thức, và cái sợ đó đưa đến việc họ muốn kiểm soát người khác.”
“Với người bị ngược
đãi, họ có thể là người từng chứng kiến cảnh đánh đập, chửi mắng trong
gia đình, họ thấy chuyện này là bình thường. Đến khi lập gia đình, thấy
chuyện tương tự như thế diễn ra, họ cũng cho là bình thường. Tức bạo
hành là sự quen thuộc trong tiềm thức của họ, họ từng trải nghiệm với nó
nên họ chịu đựng được lâu hơn, nhiều hơn,” bà Matsuda phân tích.
Trả lời cho câu hỏi,
“Còn lý do gì để người phụ nữ chấp nhận mình là nạn nhân của chuyện bạo
hành ngoài những yếu tố trên?” bà Matsuda đưa ra một số lý do, “Có khi
do họ nghĩ con họ cần cha, họ không muốn sống trong một gia đình ly dị.
Có khi nó thuộc về tâm lý vì bị lâu quá rồi nên cũng không dứt khoát để
đi ra. Cũng có khi bị trầm cảm nặng quá nên họ không còn biết cách đối
phó nữa. Cũng có khi do định kiến xã hội, họ không muốn mang tiếng bỏ
chồng. Chưa kể vấn đề tôn giáo nữa.”
Cô Vi Katerina cũng cho biết khoảng một phần ba các trường hợp cô giải quyết là người vợ muốn hòa giải.
“Tôi nghĩ với một số
người lớn tuổi thì họ mang tâm lý muốn giữ gia đình, không chấp nhận
chuyện chia tay, họ nghiêng về tình cảm, muốn giữ tình cảm đó,” cô nói.
Cũng theo cô, “Văn hóa
của người Việt Nam vẫn ảnh hưởng rất nhiều đến với người Mỹ gốc Việt,
nhất là với những người từ 35 tuổi trở lên, họ muốn gìn giữ gia đình,
muốn hàn gắn, muốn sống cùng nhau, hơn là trở thành người độc lập, bắt
đầu cuộc sống mới. Tuy nhiên cũng có những người kiếm được người nào
khác thì họ vượt qua được.”
Với những trường hợp
người vợ mới được đưa từ Việt Nam sang, Luật Sư Vi Katerina cho rằng
“nếu có gây gỗ với chồng thì những người phụ nữ này cũng không biết nơi
nào để đi, không biết ai để gọi cầu cứu vì tiếng Anh cũng không giỏi,
người thân quen không có. Thậm chí có khi gọi về Việt Nam than thở thì
người nhà còn khuyên 'thôi ráng chịu đựng.' Thành ra việc các cô gái trẻ
là nạn nhân của sự ngược đãi cũng khá nhiều.”
Tuy nhiên, Tiến Sĩ
Matsuda thừa nhận, “Hoa Kỳ là xã hội không chấp nhận bạo hành. Thế nên
khi các bác sĩ nhìn thấy bệnh nhân của mình có những dấu hiệu, những
triệu chứng của bạo hành là họ có quyền thông báo cho cảnh sát, cho các
cơ quan chức năng để đến can thiệp ở gia đình đó. Luật California cho
bác sĩ quyền đó, dù chỉ là nghi ngờ. Dĩ nhiên khi cảnh sát đến thì họ sẽ
điều tra xem có đúng hay không đúng.”
“Vấn đề này càng nằm trong bóng tối chừng nào thì nạn nhân càng bị bạo hành chừng đó,” bà nói thêm.
Thực tế, phần lớn
người Việt định cư tại Hoa Kỳ đều biết luật pháp, biết cấm đoán nạn bạo
hành gia đình, tuy nhiên, chỉ có một số ít ý thức được rằng ai vi phạm
sẽ bị truy tố ra tòa, bị án tù, bị ghi vào hồ sơ tư pháp hay có thể bị
trục xuất nếu không có quốc tịch.
Một nghiên cứu của
Giáo Sư Bùi Ngọc Hoàn thuộc trường đại học Tennessee ở Knoxville chỉ ra
rằng, “Bạo hành gia đình không dành riêng cho một xã hội nào, tất cả mọi
nơi trên thế giới đều có vấn nạn này kể cả Hoa Kỳ nơi sự can thiệp của
chính quyền và của luật pháp được xem là rất tích cực và cương quyết từ
20 năm qua. Nhưng đối với người Việt di dân tại Mỹ thì nguyên do chủ yếu
là vì nhiều người không biết luật pháp rất nghiêm khắc với người vi
phạm.”
Theo ông, điều đáng
quan tâm là mức bạo hành trong sắc dân gốc Á và Thái Bình Dương tại Hoa
Kỳ là 12.8%, thấp hơn so với người da trắng (21.3%), da đen (26.3%) và
các sắc dân thiểu số khác mà nguyên do là vì các vụ bạo hành trong người
gốc Á không được báo cáo đầy đủ cho chính quyền.
Ngọc Lan/Người Việt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét