NGUYỄN HƯNG QUỐC |
NGUYỄN HƯNG QUỐC
Cách đây mấy ngày, tình cờ tôi gặp lại một người quen, trước, sống ở
Úc, sau, về Việt Nam làm việc từ cả hơn 20 năm nay. Thỉnh thoảng, vài
ba năm một lần, anh về lại Úc để thăm gia đình. Tôi hỏi cảm tưởng của
anh mỗi lần quay lại Úc. Ngẫm nghĩ một lát, anh cho biết: Mỗi lần về
Úc, anh cảm thấy thoải mái hơn, tự tin hơn, và nhất là, được tôn trọng
hơn, do đó, thấy mình… “người” hơn.
Điều anh nói, tôi cũng đã
từng nghe nhiều người khác nói, những người vừa sống ở Úc vừa sống ở
Việt Nam. Tất cả đều nói giống nhau: Ở Việt Nam, người ta cảm thấy cái
phần “người” của họ bị đè bẹp, chỉ còn rất nhỏ, còm cõi, yếu ớt, thảm
hại. Chủ yếu là vì lúc nào cũng sợ sệt người khác. Ở nhà thì sợ người
khác cạy cửa ăn trộm, có khi, giết chết. Ra đường thì, một mặt, sợ tai
nạn giao thông; mặt khác, sợ cảnh sát giao thông quấy nhiễu, tìm cớ để
ăn hối lộ. Vào các công sở thì lúc nào cũng thấy bị uy hiếp. Sợ nhất là
gặp công an. Làm ăn lương thiện, không có tội gì cả, nhưng cứ hễ thấy
bóng công an là thấy bất an, hồi hộp, lo lắng. Nói chung, ở Việt Nam,
lúc nào người ta cũng căng thẳng vì sợ hãi. Ở Úc thì khác. Gặp ai cũng
được chào hỏi một cách thân mật. Rất hiếm thấy cảnh sát. Mà có thấy cũng
không lo sợ vì biết chắc sẽ không ai làm khó dễ gì mình. Khi cần làm
giấy tờ, bước vào cửa các cơ quan công quyền, người ta hoàn toàn tự tin
là mình sẽ được phục vụ theo đúng quy định chứ không bị sách nhiễu như ở
Việt Nam.
Tôi cho những kinh nghiệm như thế tiết lộ cho chúng ta sự khác biệt sâu sắc giữa một chế độ độc tài và một chế độ dân chủ.
Nói đến sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ, lâu nay, người ta chủ yếu
chỉ nhìn vấn đề từ góc độ chính trị; ở chính trị, người ta chủ yếu tập
trung vào yếu tố cơ chế; và trong cơ chế ấy, người ta quan tâm nhiều
nhất đến các quan hệ quyền lực. Thật ra, dưới chế độ nào, giới lãnh đạo
cũng đều có rất nhiều quyền lực. Chỉ khác ở một số điểm: Một, quyền lực,
dưới chế độ độc tài, có tính tuyệt đối, nằm hẳn trong tay của một người
hoặc một nhóm người; dưới chế độ dân chủ, có tính chất tương đối và
được phân tán, ít nhất trong ba lãnh vực khác nhau, thường được gọi là
tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp). Hai, quyền lực,
dưới chế độ độc tài, chủ yếu là do cưỡng đoạt hoặc lạm dụng; dưới chế
độc dân chủ, chủ yếu là được dân chúng uỷ thác trong các cuộc bầu cử tự
do, bình đẳng và minh bạch. Ba, quyền lực, dưới chế độ độc tài, nằm trên
cả luật pháp, ở đó, luật pháp được sử dụng như một công cụ để đàn áp
dân chúng (rule by law); dưới chế độ dân chủ, bị kiểm soát bởi luật pháp
(rule of law). Và bốn, quyền lực, dưới chế độ độc tài, có thể kéo dài
cho đến lúc bị sụp đổ; dưới chế độ dân chủ, có tính chất nhiệm kỳ.
Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ cũng có thể được nhìn từ một góc
độ khác: nhân quyền. Nói một cách tóm tắt, độc tài chà đạp lên quyền làm
người căn bản của con người trong khi dưới các chế độ dân chủ, các
quyền ấy được tôn trọng. Trong các quyền ấy, có ba loại quyền quan trọng
hơn hết: Thứ nhất là quyền được tự do suy nghĩ và tự do phát biểu dưới
mọi hình thức. Thứ hai là quyền được chọn lựa giới lãnh đạo qua các cuộc
bầu cử. Và thứ ba là quyền kiểm soát, phản biện, phê phán, thậm chí,
phản đối các chính sách của chính phủ một cách công khai qua các phương
tiện truyền thông cũng như các cuộc biểu tình bất bạo động.
Ở
Việt Nam hiện nay, không có quyền nào trong ba thứ quyền nêu trên được
tôn trọng đúng nghĩa. Người dân được quyền tự do suy nghĩ nhưng lại có
rất ít quyền tự do phát biểu. Phát biểu ở chỗ riêng tư, với bạn bè hoặc
người thân thì được, nhưng phát biểu công khai trên các phương tiện
truyền thông đại chúng - vốn hầu hết đều nằm trong tay nhà nước - thì bị
hạn chế và không ít trường hợp, bị trù dập. Hơn nữa, những cái được gọi
là tự do tư tưởng đều chỉ có ý nghĩa tương đối. Đã đành là ở Việt Nam
hiện nay, khác với trước đây, không có cảnh “đem bục công an đặt giữa
trái tim người” như lời Lê Đạt thời Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng khi người
dân không có quyền tìm kiếm và lưu giữ thông tin, khi người dân chỉ được
tiêu thụ những thông tin do chính quyền sàng lọc và cung cấp, họ cũng
không thực sự có quyền tự do tư tưởng.
Người dân cũng được đi bầu
Quốc hội, nhưng thứ nhất, người ta chỉ được bầu những người đã được lựa
chọn sẵn; và thứ hai, bản thân Quốc hội cũng chả có quyền lực gì đáng
kể trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Những lá phiếu của dân chúng
chỉ là những chi phiếu giả, không có tiền thế chấp, do đó, không có giá
trị gì cả. Nó chỉ tạo ra ảo tưởng tự do nhưng lại không phải là tự do
thật.
Riêng các quyền phản biện và chống đối thì bị bóp nghẹt
hoàn toàn. Cho đến nay, chính phủ và Quốc hội hứa hẹn sẽ soạn luật về
biểu tình nhưng cả hai đều cứ lần khân khất hẹn mãi. Những cuộc biểu
tình, dù một cách chính đáng, ví dụ chống các hành động gây hấn ngang
ngược của Trung Quốc, đều bị cấm đoán; một số người tổ chức hoặc tham
gia bị bắt bớ, có người bị cầm tù dưới nhiều tội danh khác nhau.
Việc tôn trọng các quyền làm người cũng là việc tôn trọng con người.
Không ai thực sự là người nếu các quyền căn bản của họ không được tôn
trọng. Bởi vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi sống ở dưới các chế độ
dân chủ, người ta không những được tự do mà còn thấy tự tại phơi phới,
thấy mình đích thực là mình.
NGUYỄN HƯNG QUỐC
0 nhận xét:
Đăng nhận xét