![]() |
Nhà văn Phạm Đình Trọng |
Phạm Đình Trọng
NHỮNG TẤM LÒNG BAO
DUNG
Nhận được những
câu hỏi của nhà văn Phạm Thị Hoài tôi cứ nghĩ ngợi vân vi. Không phải nghĩ về
câu trả lời mà nghĩ về chính câu hỏi. Đó là những câu hỏi mà mọi người Việt Nam đang quan
tâm đến vận mệnh đất nước hôm nay vẫn thường tự hỏi. Bao giờ dân tộc Việt Nam thoát khỏi họa Cộng sản để lại trở về với
chính mình, lại trở về với hồn cốt tinh hoa Việt Nam. Nhưng nhà văn không hỏi gay gắt
như vậy. Câu hỏi của nhà văn thật nhẹ nhàng, bao dung.
Chúng ta thử hình
dung một ngày nào đó không xa, trong vòng mươi năm tới, Việt Nam sẽ chuyển
thành công từ thể chế độc quyền dưới sự lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng sản Việt
Nam sang dân chủ đa nguyên, với nhà nước pháp quyền dựa trên tam quyền phân lập,
với tư tưởng tự do và ngôn luận, tự do hội họp và xã hội dân sự. Khi đó cái di
sản đã kéo dài ba phần tư thế kỉ ở miền Bắc và gần nửa thế kỉ trên cả nước sẽ đặt
chế độ mới trước những thử thách nào? Xã hội Việt Nam cần bao lâu để vượt qua di sản
đó? Có
những điểm sáng hay truyền thống tốt đẹp nào từ các di sản đó cần giữ gìn? Khả
năng diễn ra trong hòa bình của bước ngoặt đó lớn tới mức nào hay tình trạng bạo
loạn mà nhiều người tiên đoán và dùng đó làm lập luận chống thay đổi thể chế sẽ
xảy ra? Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ đóng vai trò gì trong tiến trình chuyển hóa
đó? . . .
Chấm dứt thể chế độc quyền lãnh đạo đất nước của đảng Cộng sản Việt Nam là điều đương nhiên, là tiến trình tất yếu của lịch sử. Càng chậm trễ, càng cản trở tiến trình đó càng có tội với dân tộc, với lịch sử, càng làm cho dân tộc li tán và suy yếu, càng làm cho đất nước tụt lại sau, càng kéo dài đau khổ của nhân dân. Nhà văn khẳng định tiến trình chấm dứt sự độc diễn trên sân khấu chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam là không thể đảo ngược nhưng vẫn trông mong đảng Cộng sản có vai trò chủ động trong tiến trình đó. Phải là một nhân cách văn hóa mới có được tấm lòng nhân hậu, bao dung như vậy. Đó là tấm lòng bao dung của nhà văn, đó cũng là tấm lòng bao dung của dân tộc Việt Nam đối với đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị đã dùng bạo lực tàn nhẫn ứng xử với dân tộc Việt Nam văn hiến và đã đem lại cho dân Việt Nam gần một thế kỉ cách mạng, chiến tranh đẫm máu, li tán dân tộc, tan hoang đất nước.
Chấm dứt thể chế độc quyền lãnh đạo đất nước của đảng Cộng sản Việt Nam là điều đương nhiên, là tiến trình tất yếu của lịch sử. Càng chậm trễ, càng cản trở tiến trình đó càng có tội với dân tộc, với lịch sử, càng làm cho dân tộc li tán và suy yếu, càng làm cho đất nước tụt lại sau, càng kéo dài đau khổ của nhân dân. Nhà văn khẳng định tiến trình chấm dứt sự độc diễn trên sân khấu chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam là không thể đảo ngược nhưng vẫn trông mong đảng Cộng sản có vai trò chủ động trong tiến trình đó. Phải là một nhân cách văn hóa mới có được tấm lòng nhân hậu, bao dung như vậy. Đó là tấm lòng bao dung của nhà văn, đó cũng là tấm lòng bao dung của dân tộc Việt Nam đối với đảng Cộng sản Việt Nam, một tổ chức chính trị đã dùng bạo lực tàn nhẫn ứng xử với dân tộc Việt Nam văn hiến và đã đem lại cho dân Việt Nam gần một thế kỉ cách mạng, chiến tranh đẫm máu, li tán dân tộc, tan hoang đất nước.
Đảng Cộng sản tồn tại bằng độc quyền quyền lực. Xóa bỏ sự độc quyền quyền lực
là xóa bỏ sự tồn tại của đảng Cộng sản. Hiện nay đảng Cộng sản đã là một sản phẩm
lỗi thời của lịch sử. Muốn tồn tại, đảng Cộng sản chỉ còn hai lựa chọn: Hoặc
dùng bạo lực hùng hậu có trong tay duy trì sự độc quyền quyền lực. Hoặc đổi mới
đảng Cộng sản để tham gia vào tiến trình dân chủ đa nguyên, để đảng Cộng sản tồn
tại bình đẳng cùng các đảng khác trong thể chế đa nguyên lành mạnh, trong xã hội
dân chủ thực sự.
Chọn con đường tồn tại bằng bạo lực, dù có lực lượng bạo lực khổng lồ và
hung hãn nhưng đã là sản phẩm lỗi thời của lịch sử thì đảng Cộng sản cũng chỉ tồn
tại được ngày nào biết ngày đó, chỉ là khoảnh khắc. Khoảnh khắc tồn tại ngắn ngủi
đó phải trả bằng giá đắt: Đảng Cộng sản tự đặt vào thế đối lập với nhân dân, trở
thành vật cản của dòng chảy lịch sử, kìm hãm đất nước trong trì trệ, đưa đất nước
vào khủng bố, đàn áp đẫm máu, vào bạo loạn, rối ren, giam cầm nhân dân trong ngục
tù, nhục hình của chuyên chính vô sản, đày ải, vô hiệu, thủ tiêu nhiều tài
năng, trí tuệ và khí phách dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam tham gia vào tiến trình dân chủ đa nguyên,
mang lại dân chủ thực sự cho xã hội Việt Nam là hồng phúc cho dân tộc
Việt Nam và cũng là hồng phúc cho chính đảng Cộng sản Việt Nam. Để làm được điều
đó, những người Cộng sản Việt Nam phải có đủ tầm trí tuệ và lòng dũng cảm nhận
ra khiếm khuyết, lỗi lầm của chủ nghĩa cộng sản đã đưa đến những thảm họa khủng
khiếp cho loài người và cho dân tộc Việt Nam, phải có tâm hồn của người Việt
Nam yêu nước thương nòi, đau nỗi đau khôn cùng của người Mẹ Việt Nam trước những
đau thương mất mát quá lớn mà hàng triệu số phận, hàng triệu gia
đình Việt Nam đã phải nhận từ năm 1930 đến nay. Trước hết họ phải nhận ra những
lầm lẫn, những ảo tưởng, những hậu quả thê thảm của học thuyết đấu tranh giai cấp
trong lí luận chủ nghĩa Marx mà họ đã thực thi.
KHÔNG CÓ CÁI TÔI CÁ NHÂN, CHỦ NGHĨA MARX LẠI ĐƯA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI TRỞ VỀ BẦY
ĐÀN
Cuộc đời mỗi người đều có ba giai đoạn: Tuổi ấu thơ ngơ ngác, tuổi còn bị
sai khiến, dạy bảo, có nhà triết học coi đó là tuổi lạc đà, phải chia động từ
“Mày phải”. Mày phải đến trường. Mày phải ngủ đúng giờ . . . . Tuổi
của bầy đàn, chưa có cá nhân, cá nhân còn lẫn trong bầy đàn, đánh mất trong bầy
đàn, chưa hình thành những nhân cách hoàn chỉnh. Đến tuổi trưởng thành,
con người nhận thức được thế giới và nhận thức được bản thân, cá nhân được hình
thành tách ra khỏi bầy đàn, cá nhân có tư duy, có chính kiến riêng cần được nhìn
nhận, cần được khẳng định sự có mặt trong cuộc đời, đó là tuổi sư tử, tuổi chia
động từ “Tôi là”. Tôi là người thợ. Tôi là cầu thủ bóng đá. Tôi là nhà giáo.
Tôi là chính khách . . . . Thời mỗi công việc, mỗi hoạt động đều có
tính chuyên nghiệp cao, là môi trường tốt nhất để cá nhân bộc lộ hết tài năng
trong nghề nghiệp, trong hoạt động, tạo ra những ngôi sao, những đỉnh cao, những
thần tượng xã hội. Cá nhân để lại dấu ấn trong cuộc đời bằng tư tưởng, chính kiến
và bằng cả tài năng trong những hoạt động nghề nghiệp, hoạt động xã hội. Thời của
những dấu ấn cá nhân. Đến giai đoạn xế chiều, con người lại trở về thời ấu thơ,
lại trở về bầy đàn, tìm đến đám bạn cùng giới tính.
Xã hội loài người cũng phải qua thời ấu thơ là thời bầy đàn bộ lạc nguyên
thủy, thời phong kiến trung cổ, chỉ có lãnh chúa, chủ đất mới có cá nhân, còn lại
chỉ là đám đông lao xao, chỉ là công cụ sản xuất trong tay chủ đất và công cụ bạo
lực trong tay vua chúa. Bước vào thời văn minh công nghiệp, xã hội loài người mới
bước vào thời trưởng thành. Khoa học kĩ thuật cho con người sức mạnh khẳng định
mình, cho trí tuệ làm chủ bản thân và làm chủ thế giới. Con người có mặt trong
xã hội là những cá nhân với tư tưởng, chính kiến riêng phải được thể hiện và phải
được xã hội nhìn nhận, tôn trọng.
Cùng với văn minh công nghiệp, cùng với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Marx ra
đời ở giai đoạn đầu thời trưởng thành của xã hội loài người khi mới chỉ có vài
nước châu Âu có văn minh công nghiệp, còn lại thế giới vẫn trì trệ trong xã hội
phong kiến, trong nền sản xuất nông nghiệp thô sơ. Ở đó, người lao động nông
nghiệp vẫn là những nô lệ của chủ đất, bị bóc lột tàn tệ hơn cả thời trung cổ
và bị cột chặt vào đất đai. Ở các nước vừa chập chững bước vào công nghiệp, máy
móc ở thế hệ đầu tiên, năng suất chưa cao và còn cần nhiều sức thợ, nguồn tích
lũy tư bản lớn nhất của những ông chủ vừa khởi nghiệp là bóc lột tận cùng sức
lao động của người thợ để có nhiều sản phẩm, nhiều lợi nhuận. Cùng với bóc lột
thậm tệ công nhân trong nước, những ông chủ tư bản cũng đã làm chủ nhà nước tư
bản còn ào ạt đưa quân đi xâm chiếm thuộc địa tìm nguyên liệu và mở rộng thị
trường.
Nhìn thấy chủ nghĩa tư bản ở buổi sơ khai hoang dã hai tay ròng ròng máu
công nhân trong nước và máu người dân thuộc địa, nhìn thấy cuộc sống khốn cùng
của người lao động do bị tư bản buổi sơ khai hoang dã bóc lột, với lòng yêu
thương con người, chàng thanh niên người Đức gốc Do Thái chưa đến ba mươi tuổi
Karl Marx đang miệt mài nghiên cứu lịch sử kinh tế, triết học và đã viết nhiều
tập Bản Thảo Kinh Tế Và Triết Học liền cho rằng: Mọi bất
công đau khổ mà con người đang phải gánh chịu là do chiếm hữu tư liệu sản xuất. Và: Lịch
sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp! Từ
nhận thức vội vàng, nông nổi, lầm lẫn, cực đoan đó, chàng tiến sĩ triết học trẻ
tuổi có bộ óc siêu vệt và trái tim nồng nàn yêu thương con người liền xây dựng
lên học thuyết Đấu Tranh Giai Cấp để tạo dựng lên một xã hội
không còn chiếm hữu tư liệu sản xuất, cội nguồn của bóc lột, bất công, mọi người
đều được sống trong yêu thương, hạnh phúc, xã hội cộng sản. Đó là tư tưởng cốt
lõi của chủ nghĩa Marx.
Chủ nghĩa Marx ra đời khi chủ nghĩa tư bản hoang dã đang hoành hành man rợ
nhất, cả loài người đang chìm đắm trong máu và nước mắt. Công nhân bị bóc lột ở
các nước công nghiệp quyết liệt đấu tranh giành quyền sống, người dân ở các nước
thuộc địa sôi sục làm cách mạng giải phóng dân tộc đều coi chủ nghĩa Marx là cứu
tinh và chủ nghĩa Marx đã nhanh chóng chiếm lĩnh cả thế giới. Marx công bố
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản năm 1848 và cuộc cách mạng xã hội cuối cùng mang tư tưởng
cộng sản của Marx thành công ở Cuba năm 1959. Có thể coi nửa cuối thế kí 19 và
nửa đầu thế kỉ 20 là một thế kỉ của chủ nghĩa Marx. Loài người đã bước sang thế
kỉ 21. Thế kỉ của chủ nghĩa Marx đã vĩnh viễn kết thúc và lùi xa rồi!
Buổi đầu chủ nghĩa Marx đã thổi bùng lên được ý chí đấu tranh giành quyền sống,
giải phóng được sức mạnh bị dồn nén của cả khối nhân loại bị bóc lột, áp bức,
làm nên những cuộc cách mạng long trời lở đất và giành được thắng lợi ở một phần
rộng lớn trên trái đất. Nhưng chủ nghĩa Marx chỉ giành được thắng lợi ở những
nơi chưa có văn minh công nghiệp, những nơi chưa có cá nhân, cá nhân chưa được
giải phóng, con người vẫn là đám đông, vẫn là bầy đàn. Nước Nga khi cách mạng
vô sản tháng Mười năm 1917 nổ ra vẫn là nước Nga nông nghiệp thô sơ của Sa
hoàng và chủ đất. Chủ nghĩa Marx là của đám đông, là sức mạnh của đám đông được
kích động bởi những quyền lợi vật chất thiết thực bao nhiêu lợi quyền ắt
qua tay mình! Chủ nghĩa Marx chỉ là lí luận tập hợp đám đông, tập hợp
khối người lao động làm thuê, khối dân nô lệ các nước thuộc địa tạo nên sức mạnh
bạo lực của đám đông làm cách mạng vô sản, đập tan xã hội cũ của chủ nghĩa tư bản
hoang dã.
Những nhà nước do cách mạng vô sản dựng nên, dùng lí luận chủ nghĩa Marx,
lí luận làm mạng vô sản của đám đông xây dựng xã hội mới đều thất bại ê chề,
cay đắng, đều để lại những tội ác lớn chưa từng có trong lịch sử loài người. Vì
xã hội mới là xã hội công nghiệp văn minh, xã hội của ý thức cá nhân, cá nhân
được nhìn nhận, thể hiện và khẳng định sự có mặt trong cuộc đời thì học thuyết
đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx chỉ nhìn nhận sự có mặt của đảng Cộng sản,
chỉ có cá nhân của những người lãnh đạo Cộng sản, người dân dù là nhà văn hóa,
nhà khoa học, là trí thức, nghệ sĩ kiệt xuất cũng chỉ là quần chúng, là bầy đàn
lạc đà cam chịu, là công cụ trong tay đảng Cộng sản như thời phong kiến trung cổ
chỉ có cá nhân lãnh chúa, chủ đất, còn lại chỉ là bầy đàn, là công cụ sản xuất
và công cụ bạo lực.
Mục tiêu hướng tới của chủ nghĩa Marx là vô cùng nhân đạo, cao cả: Xóa bỏ
bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội phát triển cao tạo ra của cải vật chất dồi
dào, con người được sống trong yêu thương, được thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất
và tinh thần. Nhưng đi đến mục tiêu cao đẹp ảo ảnh đó bằng học thuyết đấu tranh
giai cấp tàn bạo: Nhà nước chuyên chính vô sản sử dụng bộ máy công cụ bạo lực
Nhà nước xóa bỏ cá nhân, chà đạp lên số phận con người là một mâu thuẫn tệ hại
của chủ nghĩa Marx, là bi kịch lớn nhất mà chủ nghĩa Marx áp đặt cho một nửa
nhân loại suốt một thế kỉ. Học thuyết đấu tranh giai cấp vươn hai cánh tay bạo
liệt ra, cánh tay kinh tế: Xóa bỏ quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân, lạnh
lùng bóp nghẹt cuộc sống và cánh tay chính trị: Chuyên chính vô sản, thô bạo nắm
cổ người dân, định đoạt số phận người dân theo ý muốn của quyền lực vô sản chứ
không theo pháp luật.
Xóa bỏ quyền làm chủ tư liệu sản xuất của tư nhân là xóa bỏ vai trò cá nhân
trong kinh tế. Những cá nhân có vốn liếng, có kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm
tổ chức, quản lí sản xuất, làm cho đồng vốn ngày càng sinh sôi, tạo ra của cải
vật chất và của cải tinh thần ngày càng nhiều cho xã hội, những người chủ tư
nhân thao lược, tài năng bị tước đoạt quyền làm chủ, trở thành những người làm
thuê tầm thường cho những ông chủ tầm thường là người đại diện nhà nước vô sản
làm chủ khối tư liệu sản xuất chiếm đoạt của tư nhân. Quyền làm chủ tư liệu sản
xuất của tư nhân, quyền sản xuất kinh doanh của tư nhân chuyển về tay những người
trong bộ máy nhà nước vô sản hoàn toàn không có kĩ năng của người làm kinh tế,
không có phẩm chất của người làm chủ, lại hoàn toàn vô trách nhiệm, dẫn đến sản
xuất trì trệ, kinh doanh thua lỗ, xã hội nghèo đói là điều đương nhiên đã diễn
ra ở tất cả các nước hăm hở, cuồng tín thực hiện chủ nghĩa Marx!
Công hữu hóa tư liệu sản xuất chỉ xóa bỏ cá nhân trong kinh tế thì chuyên
chính vô sản đã xóa bỏ cá nhân trong toàn bộ đời sống xã hội. Với chuyên chính
vô sản, chỉ những người nắm quyền lãnh đạo đảng Cộng sản mới có cá nhân. Khối
nhân dân còn lại chỉ là một đám đông, một bầy lạc đà, một lũ trẻ thơ ngơ ngác
phải học chia động từ “Mày phải”. Mày phải học nghị quyết Đảng. Mày phải nói
theo Đảng. Mọi việc đã có Đảng và Nhà nước lo. Mày phải câm mồm, không được nói
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, không được biểu tình phản đối Trung Hoa lấn
chiếm lãnh thổ thiêng liêng của tổ tiên. Ông ủy viên bộ Chính trị đảng Cộng sản
Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam trên diễn
đàn Quốc hội thì được nhưng người dân nói Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thì
bị bắt, bị đánh, bị giam cầm. Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận
nhưng thực tế cho người dân bài học phải thuộc lòng là: Với Nhà nước của đảng Cộng
sản, người dân nói trái ý Đảng liền bị khép ngay vào tội Tuyên truyền chống Nhà
nước Xã hội chủ nghĩa mà vụ án tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, vụ bắt giam rồi lén
lút, phi pháp đưa bà Bùi Minh Hằng vào trại giam trá hình dưới tên gọi Cơ sở
giáo dục là những minh chứng.
Ở các nước công nghiệp phát triển, nơi chủ nghĩa tư bản ngự trị, cá nhân được
nhìn nhận, trí tuệ sáng tạo của cá nhân được giải phóng làm nên bộ mặt, làm nên
tầm vóc, làm nên sức mạnh của nền văn minh công nghiệp. Khoa học kĩ thuật mang
lại cho nhà tư bản lợi nhuận mau lẹ và dồi dào gấp nhiều lần thời bóc lột sức
người. Không còn những ông chủ làm giầu bằng bóc lột. Chủ nghĩa tư bản hoang dã
bóc lột sức người đã vĩnh viễn lùi xa vào quá khứ tội lỗi. Mọi người dân đều có
thể trở thành người chủ. Quyền con người và những giá trị nhân đạo vì hạnh phúc
và phẩm giá con người đều trở thành luật pháp xã hội, được Nhà nước Tư bản thực
thi nghiêm chỉnh, minh bạch trong cuộc sống. Những sản phẩm tạo ra bằng bóc lột,
bằng hủy hoại môi trường, bằng điều kiện làm việc tồi tệ của người sản xuất đều
không được chấp nhận.
Những ông chủ thế hệ cũ, vẫn sử dụng công nghệ thấp, cần nhiều sức lao động,
vẫn phải tích lũy tư bản bằng bóc lột phải tìm đến các nước đang công nghiệp
hóa, đang mở rộng cửa hứng đồng vốn đầu tư nước ngoài như Việt Nam. Chính ở đây
Nhà nước Việt Nam do đảng Cộng sản cầm quyền đáng ra phải lấy học thuyết đấu
tranh giai cấp đấu tranh với sự bóc lột của chủ tư bản, bảo vệ quyền lợi người
dân lao động ruột thịt của mình thì trớ trêu, cay đắng thay Nhà nước vẫn nói
kiên định chủ nghĩ Marx, vẫn nhân danh Chủ nghĩa xã hội nhưng chỉ chăm chăm lấy
sự hà khắc, phản dân chủ của đấu tranh giai cấp để cai trị, o ép dân và làm ngơ
trước sự bóc lột của chủ tư bản nước ngoài với đồng bào minh!
Kiên định chủ nghĩa Marx tội lỗi, lỗi thời, kiên định học thuyết đấu tranh
gia cấp bạo liệt, chỉ có Cái Tôi của người cầm quyền, không có Cái Tôi của người
dân, người dân chỉ là bầy lạc đà cắm cúi đi trên sa mạc vô tận của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội huyễn hoặc. Chủ nghĩa Marx khai sinh ra đảng Cộng sản.
Kiên định chủ nghĩa Marx để duy trì sự tồn tại của đảng Cộng sản, những người Cộng
sản lạnh lùng, cam tâm đưa xã hội trở về thời phong kiến trung cổ không nhìn nhận
Cái Tôi, đưa nhân dân trở về thời ấu thơ, bầy đàn, khổ đau và tủi nhục.
Coi nhân dân chỉ là bầy đàn, là công cụ, không có cá nhân, không được có tư
tưởng, chính kiến riêng bộc lộ rõ cả trong những văn kiện lịch sử của đảng Cộng
sản. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được
Đại hội 11 đảng Cộng sản Việt Nam bổ xung và phát triển ghi: Đi lên Chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử! Con
người trưởng thành cần khẳng định sự có mặt trong cuộc đời bằng Cái Tôi cá nhân
không khi nào chọn thứ Xã hội chủ nghĩa chà đạp lên Cái Tôi thiêng liêng. Coi
người dân là bầy đàn, là đám trẻ, không được có tư tưởng chính kiến riêng,
không cần điều tra xã hội học, không cần trưng cầu ý dân, những người Cộng sản
tự cho họ cái quyền nói tiếng nói của dân, áp đặt cả tâm tư, tình cảm cho người
dân và họ thản nhiên ghi trong những văn kiện lịch sử của đảng Cộng sản: Đi
lên Chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân. Lựa chọn Chủ nghĩa xã hội
là quyền của đảng Cộng sản nhưng đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có ba triệu đảng
viên. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là gần chín mươi triệu người dân Việt
Nam.
Lịch sử còn ghi rõ những cuộc tắm máu mà Chủ nghĩa xã hội đã gây ra cho
loài người. Sự bế tắc, cùng đường và sụp đổ vĩnh viễn của Chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới vừa diễn ra còn nóng bỏng tính thời sự, buộc cả nước Liên Xô
Xã hội chủ nghĩa lâu đời nhất, hùng mạnh nhất, thành trì của cả khối Xã hội chủ
nghĩa thế giới, buộc cả nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa nghèo khổ nhưng đầy quyết
tâm hăm hở làm cách mạng Xã hội chủ nghĩa cũng phải từ bỏ nguyên lí kinh tế cốt
lõi của Chủ nghĩa xã hội để trở về kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa. Chính
kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa đã mở lối thoát, mở con đường sống cho
thành trì Xã hội chủ nghĩa kém phát triển trở thành nước Nga có mặt trong nhóm
nước G8 giầu mạnh nhất thế giới và cứu nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa khỏi suy
sụp, tan vỡ trong bế tắc, nghèo khổ, cùng quẫn. Lịch sử đó, thực tế đó là lời
khẳng định bằng máu và nước mắt của hơn hai tỉ người dân đã từng phải sống dưới
chế độ Xã hội chủ nghĩa rằng: Chủ nghĩa xã hội sản phẩm đầy khuyết tật nghiêm
trọng của học thuyết Marx, là tai ương, là thảm họa của loài người, là ngõ cụt
lầm lạc của lịch sử. Những người Cộng sản có trí tuệ, có lương tâm đều biết rõ
điều đó. Nhưng đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ghi trong Cương lĩnh rằng Chủ
nghĩa xã hội phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử là tự lừa dối
mình và lừa dối nhân dân. Chỉ một đoạn Cương lĩnh ngắn vẻn vẹn bốn mươi mốt từ,
những nhà lí luận và những nhà lãnh đạo Cộng sản đã bộc lộ rõ hai đặc tính truyền
thống của đảng Cộng sản: Coi thường dân và lừa dối dân.
NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM KHẮC KHOẢI ĐI TÌM CÁI TÔI.
NHỮNG NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
NHỮNG NHÂN CHỨNG LỊCH SỬ
Trên đường đi đến đô thị của văn minh công nghiệp, những năm ba mươi thế kỉ
hai mươi, xã hội Việt Nam chợt đến phố huyện đã để lại dấu ấn trong văn chương
là Tự Lực Văn Đoàn với những câu chuyện tình phố huyện, là Thơ Mới ghi lại nỗi
thảng thốt sung sướng phát hiện ra Cái Tôi cá nhân trong cuộc đời và sự
khắc khoải, bền bỉ đòi hỏi sự nhìn nhận của xã hội đối với Cái Tôi thiêng liêng
đó. Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới không những có công lớn với văn hóa Việt Nam mà
còn có công lớn với lịch sử Việt Nam vì đã ghi lại bước phát triển vô cùng quan
trọng của xã hội Việt Nam và cũng là bằng chứng về sự kéo lùi lịch sử, kéo lùi
sự phát triển xã hội của đảng Cộng sản Việt Nam.
Xã hội Việt Nam mới chợt đến phố huyện trên tiến trình đi đến đô thị của
văn minh công nghiệp cũng đã kịp gọi những Cái Tôi cá nhân thức dậy. Năng lực
sáng tạo của những cá nhân đó được giải phóng đã tạo ra cho lịch sử Việt Nam thời
trước Cộng sản những tên tuổi lớn. Về văn hóa có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh,
Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm, Hoàng Xuân Hãn, Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường,
Vũ Trọng Phụng, Phạm Cao Củng, Nam Cao, Phạm Huy Thông, Nguyễn Tuân, Thế Lữ
. . . Về kinh tế có Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô, Đỗ
Đình Thiện, Nguyễn Thị Năm . . . Về chính trị có Phan Châu Trinh,
Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến . .
. Những người Việt Nam kiệt xuất đó với tầm văn hóa và lòng tự hào dân tộc đang
lặng lẽ chuẩn bị nền tảng tư tưởng, nền tảng văn hóa và cả nền tảng kinh tế, xã
hội cho một xã hội mới và đang bền bỉ thức tỉnh nhân dân, tổ chức lực lượng
chính trị cho cuộc đấu tranh với thực dân xâm lược Pháp giành độc lập dân tộc. Con
đường đấu tranh bất bạo động bằng tư tưởng, văn hóa, kinh tế, theo con đường
của M. Gandhi, theo triết lí phương Đông dựa vào lòng người “lấy chí nhân thắng
bạo tàn”, không đẩy người dân tay không ra đối đầu với súng đạn thực dân, tiết
kiệm xương máu cho dân là con đường lâu dài nhưng nền độc lập giành được bằng
con đường đó là nền độc lập thực sự và bền vững, nền độc lập không bị phụ thuộc
vào những thế lực chính trị bên ngoài.
Theo logic lịch sử, tiến trình đó đang lặng lẽ, bền bỉ và vững chắc diễn ra
ở Việt Nam thì những người Cộng sản nôn nóng vội vã mang bạo lực cách mạng của
học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu từ châu Âu xa lạ về Việt Nam, đưa nhân
dân Việt Nam vào những cuộc cách mạng, chiến tranh ý thức hệ đẫm máu của thế giới,
chia trận tuyến đấu tranh giai cấp, thanh toán địch – ta vào trong từng con người,
trong từng gia đình, trong từng cơ quan, đơn vị, phân chia trận tuyến giai cấp,
thanh toán địch – ta trong lòng dân tộc Việt Nam, đẩy nhân dân vào cuộc sát phạt,
tiêu diệt, xung đột, giằng xé, đấu đá, bất ổn, li tán cả dân tộc suốt từ giữa
thế kỉ hai mươi đến tận hôm nay vẫn chưa chấm dứt.
Sát phạt, xung đột, thanh toán, tiêu diệt, bất ổn, li tán để xóa bỏ Cái Tôi
cá nhân vừa thức tỉnh trong trí thức, trong giới chủ, trong thanh niên, học
sinh thành phố, để chỉ còn Cái Tôi quyền uy của hơn chục yếu nhân nắm vận mệnh
đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định số phận cả dân tộc Việt Nam.
Cái Tôi cá tính sáng tạo làm nên sức mạnh sư tử của con người trưởng thành
không được chấp nhận, trí thức, nghệ sĩ, nhà khoa học cũng chỉ là bầy lạc đà bị
quyền uy chăn dắt, phũ phàng đánh trận đòn “Nhân Văn Giai Phẩm” dằn mặt để
không bao giờ còn dám nghĩ đến Cái Tôi cá tính sáng tạo, chỉ còn biết gọi dạ, bảo
vâng, ăn theo, nói leo, ngợi ca chính trị, minh họa chính sách.
Không còn Cái Tôi cá tính sáng tạo, sau một đời miệt mài, hăm hở viết, nhà
văn Nguyễn Minh Châu phải đau xót viết Lời ai điếu cho nền văn học minh
họa, nền văn học được coi là có Tính Đảng vì làm vừa lòng những Cái Tôi quyền
uy của những người nắm vận mệnh Đảng, vận mệnh dân tộc nhưng không có Cái Tôi của
người viết, không có Cái Tôi của nhân vật, của nhân dân. Không có Cái Tôi nhân
cách mang vóc dáng người viết, không có Cái Tôi chân thực của cuộc đời mang hồn
cốt nhân dân trong tác phẩm thì tác phẩm chỉ là đồ giả, là mớ giấy lộn, đến khi
nhận ra điều đau xót đó thì đã cuối đời, nhà văn chỉ còn kịp viết lời ai điếu
cho những tác phẩm của chính mình!
Nhà văn Nguyễn Khải nhận ra Cái Tôi cá tính sáng tạo của ông bị giết chết với
một thái độ bình tĩnh hơn nhưng day dứt, đau đớn hơn. Cuối đời ông cứ phải âm
thầm, lặng lẽ, ngậm ngùi, thảng thốt, bơ vơ Đi tìm Cái Tôi đã mất,
đi tìm Cái Tôi cá tính sáng tạo của nhà văn đã bị bức hại, đi tìm Cái Tôi nhân
cách, Cái Tôi bản thể của con người trưởng thành đã bị giết chết để đến nỗi nhà
văn chỉ còn là đứa trẻ con cho người ta sai bảo!
Một nhà báo ngang tàng của Đài Tiếng Nói Việt Nam, một thời thường xuyên có
những bài viết nhiều tìm tòi, phát hiện về đồng bằng sông Cửu Long đăng trên những
tờ báo lớn của đảng Cộng sản Việt Nam, báo Nhân Dân, báo Sài Gòn Giải Phóng. Chính
nhà báo này từ năm 1992 là người đầu tiên gọi tên sự ứng xử với tự nhiên của
người dân đồng bằng sông Cửu Long là Chung sống với lũ. Từ đó Chung
sống với lũ trở thành phương châm, trở thành chính sách Nhà nước ở đồng
bằng sông Cưu Long. Nhìn lại chặng đường dài lặn lội viết báo cho Đảng, với những
thực tế đau lòng của đời sống báo chí, nhà báo ngang tàng Lê Phú Khải cũng phải
giận dữ, ai oán thét lên Lời ai điếu cho một nền báo chí nô bộc.
Nhà văn Trần Hoài Dương vốn điềm đạm, nói năng nhỏ nhẹ bỗng một hôm hốt hoảng
kể với tôi về một giấc mơ làm anh toát mồ hôi: Đêm qua mình có giấc mơ khủng
khiếp quá. Không hiểu sao mình lại mơ thấy cách mạng Tháng Tám thành công ngay
sau cuộc nổi dậy của Xô Viết Nghệ Tĩnh, tháng chín năm 1930. Những người đàn bà
yếm nâu váy đen, tay cầm liềm, những người đàn ông cởi trần da cháy nắng cầm
giáo mác, gậy gộc đi dưới rừng cờ đỏ ầm ầm từ Nghệ Tĩnh kéo ra Hà Nội. Họ biến
đường phố Hà Nội thành những dòng sông đỏ màu cờ và họ rùng rùng tiến về tụ lại
ở Ba Đình nghe ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Mình giật mình toát mồ
vì nhớ ra rằng năm 1930 đó chưa có Vỡ Đê, chưa có Giông
Tố của Vũ Trọng Phụng, chưa có Vang Bóng Một Thời của
Nguyễn Tuân, chưa có Nhớ Rừng của Thế Lữ, chưa có Bỉ Vỏ của
Nguyên Hồng, chưa có Bước Đường Cùng của Nguyễn Công Hoan,
chưa có Sống Mòn, chưa có Chí Phèo, Lão Hạc của
Nam Cao . . . Mình hốt hoảng thức dậy, người ướt đầm mồ hôi và
không ngủ lại được nữa. Thật hú vía! Nếu cách mạng Tháng Tám thành công từ năm
1930 thì chúng ta làm gì có Vũ Trọng Phụng, làm gì có Nguyễn Tuân, làm gì có Thế
Lữ . . . Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng vẫn còn
sống khá lâu dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa nhưng những tác phẩm để đời của họ,
những tác phẩm thực sự văn chương, thực sự là niềm tự hào của văn chương Việt
Nam đều được viết trước cách mạng, viết bằng Cái Tôi cá nhân của họ. Cái Tôi cá
nhân của họ không thể tồn tại trong Chủ nghĩa xã hội thì họ chẳng còn gì!
Từ trước đến nay đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tự cho là có công lớn với dân tộc
Việt Nam, có công đưa dân tộc Việt Nam từ nô lệ đến tự do, từ mất nước đến độc
lập, từ nghèo hèn đến giầu sang. Nhưng dân tộc Việt Nam đã phải trả một giá quá
đắt cho độc lập trong khi độc lập dân tộc là một xu thế tất yếu của lịch sử. Lịch
sử không đi những lối bất ngờ như nhà thơ của đảng Cộng sản Việt
Nam, Tố Hữu viết. Lịch sử bao giờ cũng có qui luật, có giai đoạn, có bước đi được
lập trình tạo nên tiến trình, tạo nên xu thế lịch sử.
Lịch sử loài người đi từ hoang dã đến văn minh. Chủ nghĩa tư bản cũng phải
đi từ hoang dã đến văn minh cùng nhịp với nền công nghiệp đi từ thô sơ, cần nhiều
sức người, đó là thời chủ nghĩa tư bản hoang dã bóc lột sức người, đến nền công
nghiệp hiện đại không cần nhiều sức người nữa mà cần nhiều tri thức, cần nhiều
kĩ năng. Lợi nhuận không tạo ra từ sức người nữa mà tạo ra từ khoa học kĩ thuật.
Đầu tư vào khoa học kĩ thuật, những người chủ của xã hội công nghiệp văn minh cũng
đầu tư vào phát triển xã hội, đầu tư nâng cao giá trị nhân văn của xã hội loài
người. Chế độ nô lệ dưới mọi hình thức đều không được xã hội công nghiệp văn
minh chấp nhận. Đó là thời chủ nghĩa tư bản văn minh cũng là kỉ nguyên độc lập
dân tộc.
Những người Cộng sản đã đưa dân tộc Việt Nam đi qua chặng đường máu lửa thảm
khốc và xa ngái mới đến nền độc lập mong manh. Những ngày này giặc phương Bắc
ngang nhiên lấn đất, lấn biển của ta, áp đặt mọi tai ương cho dân tộc ta. Từ
khi hấp tấp, hốt hoảng sang Thành Đô gặp lãnh đạo phương Bắc, tháng chín năm
1990, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam phải liên tiếp nhượng bộ hết đòi hỏi
này đến đòi hỏi khác của phương Bắc. Nhưng càng nhượng bộ, họ càng lấn tới, lại
càng thấy nền độc lập của ta có được từ sông máu biển lửa là vô cùng mong manh.
Nền độc lập mong manh phải đổi bằng giá đắt như vậy nhưng có độc lập thì người
dân lại mất tự do cá nhân, mất Cái Tôi cá nhân thiêng liêng và quí giá của kiếp
người thì đó là công hay tội nhỉ?
Thời đầu đổi mới, cuối những năm tám mươi, thế kỉ hai mươi, đảng Cộng sản
Việt Nam nêu khẩu hiệu Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật nhưng
chưa bao giờ những người Cộng sản Việt Nam đủ lòng trung thực để nhìn vào sự thật.
Đảng luôn tự cho mình là sáng suốt, vĩ đại, quang vinh thì không thể tiếp cận sự
thật. Nhân dân bền bỉ hi sinh dựng nước và giữ nước để có nước Việt Nam hôm nay
không bao giờ được Đảng nhắc đến bằng một khẩu hiệu khiêm nhường. Tổ quốc
thiêng liêng cũng bị lãng quên. Từ khi đảng thâu tóm đất nước trong tay, đất nước
gấm vóc, nhân dân cần cù sáng tạo nhưng xã hội Việt Nam càng ngày càng tụt lại
sau so với các nước vậy mà từ đỉnh Lũng Cú, Hà Giang đến chót mũi Năm Căn, Cà
Mau, nơi nào cũng thấy hàng chữ cao ngạo Đảng Cộng sản Việt Nam quang
vinh muôn năm! Muôn năm cả cái Xã hội chủ nghĩa hư vô, không có thật. Chủ
nghĩa xã hội không có thật đã gây bao đau khổ và nhiều nợ máu với nhân dân mà vẫn
muôn năm: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm! Còn
nhân dân hết đời này đến đời khác lấy máu viết lên chữ Việt Nam thì Đảng không
cần biết tới, thì chỉ là hư vô!
Với người còn tư duy bình thường, còn phân biệt được cái riêng, cái chung,
cái tầm thường, cái cao cả thì phải hiểu Tổ quốc là giá trị tinh thần thiêng
liêng, cao cả, bất biến, vĩnh hằng của cả dân tộc. Đảng chỉ là tổ chức chính trị
bình thường, biến động và nhất thời của riêng một số người, là vô cùng nhỏ bé
so với nhân dân, dân tộc, Tổ quốc. Một Đảng phải tồn tại bằng bạo lực, phải lấy
tiền thuế của dân nuôi một bộ máy công an khổng lồ chỉ biết còn đảng
còn mình để trấn áp tiếng nói tự do dân chủ của dân để duy trì sự tồn
tại của Đảng, một Đảng đạp vào mặt dân và bỏ tù trí thức chỉ vì trí thức nói sự
thật thì Đảng đó không còn bình thường nữa mà đã là tầm thường rồi. Đưa lá cờ của
Đảng dù đang cầm quyền nhưng cũng chỉ là tổ chức chính trị nhất thời, nhỏ bé, tầm
thường của riêng một số người lên ngang hàng lá cờ Tổ quốc thiêng liêng của cả
dân tộc là sự cao ngạo đến mức không còn biết đến chữ Lễ, chữ Nhân.
Cao ngạo như vậy làm sao thấy được sự thật! Cao ngạo như vậy làm sao đến được
với những lo toan, vất vả, khổ đau của dân! Cao ngạo như vậy nên ai thẳng thắn
nói điều trái ý Đảng, đụng đến cái sai, cái yếu của Đảng, của Nhà nước, đều bị
Đảng khép vào tội tuyên truyền chống Nhà nước của Đảng, đều bị Đảng trừng trị
khắc nghiệt. Nhưng ngục tù chỉ có thể giam cầm được thân xác Nguyễn Hữu Đang,
Trần Dần, Hoàng Cầm, Tuân Nguyễn, Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Phạm Quế Dương,
Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Tạ Phong Tần,
Bùi Minh Hằng . . . , không giam cầm được tư tưởng của họ. Bạo
lực chuyên chính vô sản chỉ có thể bịt miệng được người dân, không bịt miệng được
lịch sử. Trước sau lịch sử Việt Nam cũng phải ghi những trang đau buồn rằng đảng
Cộng sản Việt Nam đã kéo lùi lịch sử phát triển dân tộc, đã biến cả dân tộc Việt
Nam thành bầy đàn nô lệ của Đảng, đã biến dân tộc Việt Nam văn hiến, tồn tại bằng
đùm bọc thương yêu thành dân tộc li tán, hận thù, bạo lực! Và những người Việt
Nam có Cái Tôi bị chà đạp, bị giết chết tức tưởi là những chứng nhân hùng hồn
xác nhận điều đó.
BI KICH CỘNG SẢN – BI KỊCH VIỆT NAM
Chế độ xã hội này chỉ có thể thay thế chế độ xã hội khác bằng tạo ra được
năng suất lao động cao hơn. Giai cấp này thay thế giai cấp khác thống trị xã hội
phải là giai cấp nhân văn hơn, tiến bộ hơn, văn minh hơn, phù hợp với tiến
trình phát triển của lịch sử, thúc đẩy xã hội phát triển nhanh hơn.
Xã hội tư bản tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn xã hội phong kiến. Giai
cấp tư sản được kỉ nguyên Ánh sáng nâng tầm trí tuệ. Với tư tưởng giải phóng cá
nhân, quyền con người, quyền công dân trở thành tuyên ngôn của giai cấp tư sản,
trở thành luật pháp của Nhà nước tư sản. Giai cấp tư sản làm chủ xã hội, cá
nhân được nhìn nhận, năng lực sáng tạo của cá nhân được giải phóng đã đưa xã hội
loài người vào thời kì phát triển kì diệu, đưa con người vào kỉ nguyên vũ trụ,
đưa xã hội loài người vào nền văn minh tin học. Cho đến nay sự phát triển kì diệu
vẫn đang tiếp diễn. Cho đến nay giai cấp tư sản giầu có của cải, giầu có trí tuệ
vẫn là giai cấp tiên tiến nhất, vẫn phải nhận sứ mệnh lịch sử là giai cấp lãnh
đạo xã hội. Giải phóng năng lực sáng tạo của cá nhân tạo nên sự phát triển kì
diệu của xã hội, thực tế đó đã khẳng định rằng trí tuệ con người được giải
phóng, năng lực sáng tạo của cá nhân được giải phóng chính là động lực thúc đẩy
xã hội phát triển.
Coi đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển đó là điểm xuất
phát, là nền tảng tư tưởng sai lầm của học thuyết Marx. Sai lầm gọi sai lầm.
Sai lầm tư tưởng cũng gây ra sai lầm dây chuyền domino. Lí luận chủ nghĩa Marx
xây dựng trên nền tảng tư tưởng sai lầm, cực đoan đấu tranh giai cấp là động
lực thúc đẩy xã hội phát triển đã đưa xã hội loài người vào cuộc đấu tranh bạo
liệt bất tận tranh giành quyền lợi, tranh giành miếng ăn, tranh giành không
gian sinh tồn như xã hội loài vật. Đưa giai cấp không phải là giai cấp tiên tiến,
giai cấp vô sản, một giai cấp không có của cải, không có tri thức và chính Marx
phải thú nhận giai cấp vô sản chỉ có xiềng xích, làm cách mạng lật đổ giai cấp
tư sản là giai cấp khi vừa làm cách mạng thắng lợi lật đổ giai cấp phong kiến
trì trệ, không có cá nhân, đã công bố ngay Tuyên ngôn Nhân quyền xác nhận Quyền
Con Người cho mọi người dân và xây dựng luật pháp bảo đảm Quyền Con Người cho mọi
công dân trong đó có những người vô sản làm thuê.
Làm cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, giai cấp vô sản chỉ mất xiềng xích mà
được cả thế giới. Được cả thế giới rồi đảng Cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp
vô sản lại đưa nhân dân dưới sự cai trị của họ trở về bầy đàn. Học thuyết đấu
tranh giai cấp trao cho đảng Cộng sản, thực chất là trao cho nhóm người nắm quyền
lực trong Đảng độc quyền quản lí xã hội, độc đoán xóa bỏ cá nhân, tước đoạt Cái
Tôi cá thể của người dân. Xã hội Cộng sản thời công nghiệp có đủ tiện nghi hiện
đại, rực rỡ ánh sáng nhưng con người không còn Cái Tôi thiêng liêng, thân phận
lại trở về thời trung cố tăm tối. Đó là bi kịch Cộng sản!
Đưa giai cấp không phải là tiên tiến, giai cấp nghèo khổ, làm thuê, chưa có
cá nhân, chưa làm chủ được chính cuộc đời mình lên làm chủ xã hội, lên thống trị
xã hội, bi kịch Cộng sản đó diễn ra ở nước ta là: Khi đảng Cộng sản lãnh đạo cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, Việt Nam chỉ có mấy mỏ than đang khai thác chủ yếu
bằng sức người, mấy cơ sở công nghiệp phục vụ sinh hoạt như nhà máy điện, nhà
máy nước, nhà máy dệt, vài xưởng cơ khí sửa chữa nhỏ, chưa có hình hài của nền
sản xuất công nghiệp, chưa có đội ngũ công nhân công nghiệp đủ để trở thành lực
lượng xã hội, giai cấp vô sản Việt Nam chỉ là những người nông dân cùng khổ
không nuôi nổi bản thân phải giao thân cho chủ đất. Cách mạng vô sản đã đưa những
người nông dân cùng khổ, chưa có cá nhân, không nuôi nổi bản thân, phải giao
thân cho chủ đất, lên làm chủ xã hội, lo toan nuôi cả xã hội, tổ chức hoạt động
cho cả xã hội.
Ở vị trí làm chủ xã hội, những người nông dân cùng khổ dồn về thủ đô, ngồi
vào vị trí của những tài năng, tinh hoa, trí tuệ của đất nước. Lập tức có ngay
một hiệu ứng xã hội: Cả thủ đô nói ngọng! Chỉ những tiếng nói ngọng nghịu ở thủ
đô đã cho thấy đất nước bị xuống cấp đến mức nào. Xuống cấp từ nền tảng văn
hóa, cái thế, cái tầm của đất nước xuống thấp, cái cao cả không còn nữa, cái thấp
hèn tràn ngập.
Nền tảng văn hóa thấp đó lại bị ý thức hệ giai cấp thống trị, triệt tiêu ý
thức dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã tự đặt mình vào vị thế lệ thuộc
vào phương Bắc, lệ thuộc ý thức hệ giai cấp, phải kí hết hiệp định này đến hiệp
định khác, những hiệp định bất bình đẳng, thua thiệt với phương Bắc, tạo điều
kiện cho Phương Bắc xâm nhập sâu rộng vào đời sống xã hội Việt Nam, gây bất ổn
xã hội, cái họa Bắc thuộc hiển hiện trước mắt. Đất đai biển trời thiêng liêng của
dân tộc Việt Nam bỗng thành của riêng của giai cấp vô sản Việt Nam để giai cấp
vô sản Việt Nam vô tư cắt nhượng cho giai cấp vô sản phương Bắc. Đã là của
riêng của giai cấp vô sản thì việc cắt nhượng đất đai chỉ là việc riêng của đảng
Cộng sản, việc riêng của Nhà nước Cộng sản, nhân dân không được biết, đến Quốc
hội cũng không được biết! Nhưng cắt nhượng cho phương Bắc nửa thác Bản Giốc
hùng vĩ ở Cao Bằng, cắt nhượng cho phương Bắc cả tòa thành cổng nước cổ kính ở
Lạng Sơn đã in bóng sừng sững trong lịch sử Việt Nam thì không thể lén lút giấu
dân được mãi. Sự thật mất đất đai của tổ tiên phơi bày ra rồi, nhân dân chỉ còn
biết nghẹn ngào, đau xót, khóc cho cơ thể Tổ quốc Việt Nam bị cắt xẻo ứa máu,
khóc cho lịch sử Việt Nam phải ghi lại những năm tháng tủi nhục!
Làm ăn kinh tế thua lỗ. Các tập đoàn kinh tế Nhà nước độc quyền khai thác
tài nguyên đất nước, thoải mái sử dụng đồng tiền thuế của dân, say sưa mở rộng
đầu tư vô tội vạ, tự trả lương cho mình cao chót vót rồi thất thanh kêu lỗ, nằng
nặc đòi tăng giá sản phẩm, dồn gánh nặng thua lỗ lên đôi vai gầy guộc của người
dân nghèo khốn khổ! Những tập đoàn kinh tế chủ lực của đất nước cứ thua lỗ dài
dài như vậy, bao giờ người dân mới thoát kiếp nghèo? Chỉ một tập đoàn công nghiệp
tầu thủy Vinashin, những người quản lí kinh tế đất nước chi tiêu vung vãi, làm
thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng tiền thuế mồ hôi xương máu của dân!
Nền tảng văn hóa thấp không thể tiếp cận tư tưởng Ánh sáng : Tự do – Bình đẳng
– Bác ái, không biết đến Quyền Con Người của người dân, những người nông dân có
quyền lực trong tay lập tức hiện hình lên là những ông quan đục khoét dân, bức
hại dân thời phong kiến suy tàn. Phép vua thua lệ làng, quan lại địa phương
Tiên Lãng tự tạo ra luật huyện, luật xã nhẫn tâm cướp đất, cướp mồ hôi, xương
máu của dân. Cướp bằng trát không được thì nhân danh Nhà nước, nhân danh công vụ
dùng sức mạnh bạo lực Nhà nước vốn chỉ để trấn áp tội phạm và giặc cướp nước ra
trấn áp dân lương thiện.
Lí tưởng xã hội sụp đổ thì chỉ còn biết dựa vào bạo lực và nền tảng văn hóa
thấp thường lạm dụng bạo lực. Bạo lực được sử dụng tràn lan với dân. Bạo lực
không phải chỉ là dùng sức mạnh công an đàn áp, bắt bớ dân khi dân ôn hòa bộc lộ
chính kiến khác biệt với Nhà nước vô sản về những vấn đề của đất nước. Bạo lực
không phải chỉ là huy động lực lượng đông đảo công an, quân đội, chó nghiệp vụ
hùng hổ thực hiện những cuộc cưỡng chế, giải tỏa thất đức. Bạo lực không phải
chỉ là công an hung hãn đánh dân ngay trên đường phố, đánh chết dân trong trại
giam. Bạo lực còn là những phiên tòa bịt miệng luật sư, những phiên tòa vắng
bóng công lí và những bản án nghiệt ngã dành cho người dân có chính kiến khác
biệt với Nhà nước vô sản.
Nhà nước ứng xử với dân bằng bạo lực là bằng chứng rõ nhất về một nền chính
trị suy vi, không còn lí tưởng, không còn chính danh, là biểu hiện của một thời
bất ổn, thời bạo lực lên ngôi, thời Nhà nước phải xây nhiều nhà tù công khai và
nhiều nhà tù trá hình như cơ sở giáo dục đang giam cầm chị Bùi Minh Hằng. Còn
ngoài xã hội những vụ giết người man rợ xảy ra khắp nơi! Mạng sống của dân lành
quá rẻ rúng, máu dân lành đang lênh láng bởi bạo lực Nhà nước và bạo lực côn đồ!
Những người nông dân cùng khổ chưa có cá nhân nay làm chủ xã hội thì họ
không biết đến cá nhân của con người trong xã hội, họ không đếm xỉa đến Quyền
Con Người cũng là tất yếu. Người dân sử dụng Quyền Tự do Ngôn luận liền bị Nhà
nước không đếm xỉa đến Quyền Con Người bỏ tù. Người dân sử dụng Quyền Biểu Tình
liền bị Nhà nước không đếm xỉa đến Quyền Con Người đàn áp, bị công an đạp vào mặt,
bị bắt giam, bị đánh đập.
Những người nông dân cùng khổ trước đây nuôi bản thân không nổi, sau mấy chục
năm ở vị trí làm chủ xã hội, nay đã nhà cao cửa rộng và để tiêu chuẩn hóa, để
tương xứng với vị trí làm chủ xã hội, họ đã có đủ bằng cấp, học hàm, học vị cao
sang. Nền tảng văn hóa của một con người cũng như sự màu mỡ của một cánh đồng. Phải
có dòng sông phù sa qua nhiều đời bồi đắp mới làm nên cánh đồng màu mỡ. Phải có
thói quen, nề nếp tư duy, lao động trí não như một dòng chảy tự nhiên, bền bỉ
tích lũy qua nhiều thế hệ mới làm nên nền tảng văn hóa. Hình thái lao động cũng
có sự phân công tự nhiên. Có người có sự khéo léo, tài hoa nghệ sĩ. Có người có
sức mạnh của đôi tay. Có người có sức mạnh của trí tuệ. Học để có văn hóa phổ
thông, biết đọc biết viết tiếng mẹ đẻ thì ai cũng học được. Còn học để biến kiến
thức của loài người thành kiến thức của riêng mình, để hình thành con người văn
hóa, nhân cách văn hóa của mình thì không phải ai cũng học được. Không phải ai
cũng học được nhưng ai cũng có thể mua được, chạy được, tìm cách để có được tấm
bằng của sự học. Nhìn cách hành xử của những quan chức ở Vinashin, quan chức ở
huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, không hề thấy con người văn hóa, nhân cách văn hóa
mà vẫn chỉ thấy nguyên xi con người nông dân ngày nào nghèo khổ không nuôi nổi
bản thân nay họ có quyền lực trong tay, có tiền bạc, tài sản của nhân dân trong
tay, họ hối hả tìm mọi cách biến của dân thành của riêng họ.
Một trí thức yêu nước của giai cấp tư sản giàu có của cải, giầu có trí tuệ
đi với cách mạng vô sản trong chiến tranh giải phóng dân tộc khi rời chức vụ về
hưu ông đã trả lại ngôi nhà nguy nga được cấp giữa thủ đô cho Nhà nước, trở về
ngôi nhà của gia đình có từ trước cách mạng. Đó là hành xử của trí thức tư sản,
kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Còn quan chức vô sản bao đời không nuôi nổi bản
thân nay có chức vụ liền dùng chức vụ để thỏa mãn những thèm khát từ bao kiếp
người. Quan chức nào cũng vội vã xây lâu đài nguy nga. Chính những lâu đài nguy
nga đó đã dựng lên chân dung văn hóa nghèo nàn thảm hại của họ. Cả ông phó ban
Biên giới bộ Ngoại giao khi nói rằng tàu Trung Hoa vào sâu trong vùng biển của
ta cắt cáp tàu của ta, phá việc khai thác dầu khí của ta cũng chỉ như người cha
yêu thương con, yêu cho roi cho vot, yêu thì phải dạy bảo, ở ông quan cấp cao bộ
Ngoại giao đó cũng không hề thấy con người văn hóa, nhân cách văn hóa!
Những người nông dân nghèo khổ, chưa có cá nhân, không nuôi nổi bản thân,
nhờ có cách mạng vô sản họ mới trở thành Tổng giám đốc này, Chủ tịch nọ, phó
Ban kia. Cách mạng vô sản là họ. Đảng vô sản cũng chính là họ. Và họ sẽ bảo vệ
Đảng đến cùng. Đảng Cộng sản là của những con người như vậy.
Đảng Cộng sản Việt
Nam còn độc quyền thống trị xã hội Việt Nam thì bi kịch Cộng sản vẫn còn đeo đẳng
với dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam còn bị tha hóa, đánh mất mình, đánh mất
cả nền văn hiến, đánh mất cả tình thương yêu đùm bọc dân tộc, chỉ còn bạo lực,
li tán và hận thù dân tộc!
3. 2. 2012. Ngày
ĐCSVN tròn 82 tuổi.
Phạm Đình Trọng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét