Phan Châu Trinh (1872-1926) |
Vĩnh Sính *
Trong
những tác phẩm chính luận viết bằng Hán văn của Phan Châu Trinh (1872-1926), có
một tác phẩm rất quan trọng nhưng từ trước tới nay chưa được tìm hiểu đúng mức,
thậm chí ít được biết đến. Tác phẩm đó mang tên là Pháp Việt liên hợp hậu chi
Tân Việt Nam (Nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hợp; sẽ viết là
Tân Việt Nam).
Tân
Việt Nam
được trước tác sau khi Phan được thả từ Côn Đảo (tháng 6, 1910) và trước khi đi
Pháp (tháng 3, 1911). Tác phẩm này có mục đích minh oan cho các đồng chí của
Phan đang bị tù đày sau cuộc dân biến ở Trung Kỳ (1908) bằng cách nói lên những
điểm khác nhau giữa lập trường của Phan và Phan Bội Châu cũng như giữa hai nhóm
minh xã (bất bạo động) và ám xã (bạo động) mà hai người đại diện.
Theo Phan, nhằm hiểu rõ những điểm khác biệt giữa hai lập trường, không thể
không biết đến hoàn cảnh lịch sử và cỗi rễ xa xăm đã tạo nên tính cách con người
Việt Nam.
Trong
bài này, trước hết chúng tôi sẽ bàn về tình hình văn bản của tác phẩm Tân
Việt Nam. Sau đó, chúng tôi sẽ phân tích và đánh giá cách nhìn của Phan Châu
Trinh về tính cách con người Việt Nam nói chung và con người Phan Bội Châu nói
riêng.
Văn
bản:
Di cảo Tân Việt Nam là một “vị định cảo”, tức là một bản thảo chưa được
sửa chữa và nhuận sắc trọn vẹn. Bản thảo gồm 42 trang chữ Hán viết tay, 31 trang
đầu là phần cốt lõi của tác phẩm. Có nhiều đoạn khó đọc vì chữ viết nhỏ và thảo.
Hiện nay có hai bản dịch quốc ngữ của Tân Việt Nam 1, nhưng vì cả hai
bản dịch có nhiều chỗ không đúng với nguyên văn nên cần phải tham chiếu bản chữ
Hán khi nghiên cứu. Bố cục của di cảo tự thân cũng chưa được hoàn chỉnh, ngay
chính đầu đề “Nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hợp” dễ gây ngộ nhận vì
trong suốt di cảo Phan không nói gì cụ thể về một nước Việt Nam mới sau khi Pháp
Việt liên hợp. Đối với một nhân vật có cặp mắt quan sát nhạy bén, lập luận khúc
chiết, và sở trường về văn nghị luận như Phan Châu Trinh, không thể có khả năng
là tác giả đã viết lạc đề. Vậy nghi vấn này phải được giải thích sao đây ?
Sau
một thời gian nghiền ngẫm các trước tác chính luận của Phan nói chung và Tân
Việt Nam nói riêng, chúng tôi đặt giả thuyết : Phải chăng Tân Việt
Nam là phần đầu của một di cảo khác, và di cảo đó là di cảo nào ?
Liệt
kê theo thứ tự thời gian trước tác sau khi tác giả rời Côn Đảo để trở về đất
liền vào tháng 6, 1910, đến khi sang Pháp (tháng 3 và tháng 4, 1911) và cho đến
cuối năm 1912, 3 di cảo chính luận mà ta biết chắc chắn là Phan đã viết trong
giai đoạn này là : 1) Tân Việt Nam, 2) Đông Dương chính trị luận,
3) Trung kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký (Kêu oan về vụ dân biến ở Trung
Kỳ). Sau đây chúng tôi xin giải thích vì sao theo thiển kiến, Đông dương
chính trị luận chính là phần tiếp nối của Tân Việt Nam.
Thủ bút Phan Châu Trinh : trang đầu bản thảo Tân Việt Nam |
Sau
khi về đến Sài Gòn và trước khi sang Pháp, Phan đã viết Tân Việt Nam. Vì
sao ta biết được như thế ? Trước hết, bà Phan Thị Châu Liên – con gái của Phan –
cho biết về hoạt động của Phan sau khi được thả ra từ Côn Đảo như sau : “Ở
Saigon, chánh phủ có đặt một hội đồng, Tham biện Mỹ Tho ông Couzineau bị
[sic] cử làm chủ tọa, có đủ đề hình chưởng lý cả. Ông Couzineau đọc diễn
văn có câu rằng: ‘Thay mặt cả dân nước Đại Pháp, tôi trả lại tự do cho ông’. Lại
hỏi tiên sinh muốn nói điều gì. Tiên sinh ước lược chánh sách liên lạc Pháp
Việt và yêu cầu mấy điều rồi xuống ở Mỹ Tho. (Tiên sinh xin : 1) tha bọn
quốc sự phạm ; 2) Trị tội Phạm Ngọc Quát, vì giết ông nghè Trần Quý Cáp là người
vô tội ; xin đi Tây)” (Phan Thị Châu Liên, “Phan Tây Hồ Tiên sinh dật sự”, in
lại trong Phan Châu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ (Lê Văn Siêu bình giải và chú
thích), trang LVI). Mặc dầu trong phiên họp Couzineau làm chủ tọa này Phan đã
trình bày về ước lược chánh sách liên lạc Pháp Việt và rất có thể là Phan
đã nói về Phan Bội Châu, nhưng chúng ta biết rằng Tân Việt Nam đã viết
sau đó vì lý do khá đơn giản : trong di cảo này có 2 chỗ nhắc lại chuyện
này. Chúng tôi tình cờ tìm được chìa khóa quan trọng này nhân đọc lại Tân
Việt Nam vào tháng 3 năm nay (2006) :
Tôi
dẫu tuy được tha, bị ném trong xó góc để dễ kiểm soát, tâm sự ngổn ngang. Tôi
rất thẹn vói người bạn quá cố là Tiến sĩ Trần Quý Cáp... (Tân
Việt Nam, trang 15, bằng Hán văn).
hoặc,
rõ ràng hơn nữa :
Trinh
được tha từ Côn Lôn, bị thả trong một cái phòng của quản hạt ở Mỹ Tho (Sài Gòn),
không có lấy một người quen.
(Tân Việt Nam, trang 34, bằng Hán văn).
Chẳng
bao lâu sau khi đến Pháp vào tháng 4 năm 1911, Phan đã làm việc khẩn trương với
Jules Roux nhằm giải bày quan điểm của mình với Bộ trưởng Thuộc địa Messimy và
Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (vừa được bổ nhiệm 2) về tình hình
chính trị ở Việt Nam, đồng thời bày tỏ những yêu sách đối với chế độ cai trị của
người Pháp – trong đó có việc minh oan và khiếu nại cho các thân sĩ còn đang bị
lưu đày ở Côn Đảo sau vụ dân biến năm 1908. Roux lúc bấy giờ là đại uý tại toà
án quân sự, kiêm trợ lý bộ trưởng Thuộc địa. Phan trước tiên viết những ý kiến
của mình thành những bài viết ngắn bằng chữ Hán, rồi dịch những bài đó sang chữ
quốc ngữ để Roux dịch lại sang tiếng Pháp. Từ những bài viết chữ Hán này, Phan
đã bổ sung và viết lại thành 2 di cảo Đông Dương chính trị luận và
Trung kỳ dân biến tụng oan thỉ mạt ký. So sánh 2 di cảo này và dựa trên
những thông tin chúng ta đã biết về Phan trong thời kỳ mới sang Pháp, ta thấy
như sau:
1)
Trung Kỳ dân biến là một văn bản hoàn chỉnh gồm 55 trang chữ Hán viết
tay, tương đương với chừng 60 trang giấy in chữ quốc ngữ. Đây là một di cảo độc
lập mà Phan viết nhằm minh oan cho những đồng chí còn bị tù đày ở Côn Đảo.
2)
Đông Dương chính trị luận cũng đã được sửa chữa cẩn thận. Di cảo gồm 62
trang chữ Hán viết tay này (tương đương với khoảng 70 trang giấy in chữ quốc
ngữ) trình bày những tệ đoan chính trị, xã hội và kinh tế ở Việt Nam với lập
luận khúc chiết và nêu rõ nguồn cơn cụ thể. Các ý tưởng chính trong di cảo này
có lẽ đã lấy từ những bài viết ngắn bằng chữ Hán mà Phan đã dịch ra chữ quốc ngữ
để Roux dịch lại sang chữ Pháp 3. Tuy di cảo này
thường được xem là một tác phẩm độc lập, nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy trong nguyên
bản di cảo do chính tay Phan viết bằng chữ Hán chỉ có các tiểu đề chứ
không có nhan đề. Di cảo này còn được lưu trữ tại nhà thờ cụ Phan ở Đà
Nẵng. Nhan đề “Đông dương chính trị luận” và dòng chữ “Tây Hồ Phan Hy Mã
Tiên sinh trước” (Do Tây-Hồ Phan Hy-Mã Tiên sinh trước tác) đã được ghi thêm
trong bản sao của ông Trần Tiêu đề ngày 4 tháng 4 năm Bính Dần (15 tháng 5,
1926) 4. Vì nguyên bản
di cảo không có nhan đề, ta có thể suy luận rằng Đông dương chính trị luận
là phần nối tiếp của một văn bản khác. Nhưng để chứng minh Đông Dương
chính trị luận chính là phần nối tiếp của Tân Việt Nam, ta cần xét
thêm các yếu tố thời điểm và nội dung.
3)
Về thời điểm, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng di cảo được viết ngay sau
Tân Việt Nam chính là Đông Dương chính trị luận chứ không phải
Trung Kỳ dân biến. Lý do ? Bởi lẽ sau 62 trang di cảo của Đông Dương
chính trị luận, 12 trang rưỡi kế đó là bản thảo của Trung Kỳ dân
biến. Điều này chứng tỏ : Đông Dương chính trị luận được viết trước
Trung Kỳ dân biến và chẳng bao lâu sau khi viết Tân Việt Nam vì
ngay chính Trung Kỳ dân biến, di cảo cuối cùng trong 2 di cảo, cũng đã
viết xong trong năm 1912.
4)
Huống nữa, nội dung của Đông dương chính trị luận cũng phù hợp với Tân
Việt Nam. Lý do là với đề tài Tân Việt Nam khi bàn về một nước Việt
Nam mới sau khi Pháp Việt liên hợp thì không thể không bàn về những tệ hại cùng
những thảm trạng trong dân gian lúc bấy giờ — và đó chính là chủ đề của Đông
Dương chính trị luận.
Trong
di cảo Tân Việt Nam, phần lớn các đề mục đã tạm viết xong tuy có
đoạn trùng lặp, có nhiều chỗ Phan đã bổ sung với những hàng chữ rất nhỏ 5; nhưng ở một số
tiết mục Phan ghi tiểu đề rồi chỉ mới viết đôi hàng như có dụng ý sau này có
thời giờ sẽ viết thêm. Chúng ta suy đoán là sở dĩ di cảo Tân Việt Nam
cuối cùng vẫn còn ở trong tình trạng dang dở, vì đáng tiếc thay, chưa đầy
một năm sau khi về nước Phan đã qua đời vào tháng 3 năm
1926.
*
Nhận
thức của Phan về tính cách của người Việt và về ảnh hưởng tai hại của lối học
khoa cử :
Vào buổi bình minh của lịch sử, dân tộc ta tự sinh sôi nảy nở dọc theo chân núi
Tản Viên và lưu vực sông Nhị, sống an bình biệt lập với thế giới bên ngoài như
người ở chốn Đào Nguyên. Giao thiệp giữa người Việt Nam với người Trung Quốc chỉ
bắt đầu từ khi Tần Thủy Hoàng nhất thống thiên hạ (221 trước CN) rồi luôn đà áp
đặt ách thống trị của Trung Quốc lên vùng đất Giao Chỉ mà tổ tiên ta đã dày công
xây dựng. Trong suốt hơn ngàn năm Bắc thuộc bắt đầu từ đấy, những tính cách đặc
biệt của người Việt vẫn thể hiện rõ ràng, không chịu chấp nhận lối nhìn có tính
cách tuỳ tiện của các sử gia Trung Quốc “coi Trung Quốc là cha mà ta là con và
cho rằng người nước ta không làm được gì cả” 6. Theo Phan, từ
nay về sau ta phải sáng suốt để thấy rằng tính ỷ lại trong người Việt chính là
do lối nhìn vọng ngoại tạo nên thì mới may ra khắc phục được căn tính đó.
Vì
sao Giao Chỉ chỉ là một vùng đất có diện tích chưa bằng một tỉnh lớn của Trung
Quốc mà không bị đồng hoá qua hơn ngàn năm Bắc thuộc? Phải chăng đó là điều may
mắn Trời đã ban cho (Thiên hạnh) hay là do bàn tay giúp đỡ của thần thánh
(Thần trợ)? Phan cho rằng kỳ tích ấy, nói cho đúng, không phải là công
của riêng ai, mà do những “đặc tính vĩ đại của dân tộc ta đã có từ ngàn năm
trước” là “trầm nghị, kiên nhẫn, độc lập, bất khuất” đã tạo nên. Người Việt từ
ngàn xưa vốn đã quật cường: “khi bên kia (bỉ) quá hung hãn thì ta tạm
thời nhượng bộ, khi bên kia sơ hở thì ta chống trả”. Qua muôn vàn thử thách,
tình tự dân tộc ngày càng sâu đậm và ý chí tự chủ bất khuất trở nên sắt đá 7.
Đến
thời Ngũ Quý (907-960 sau CN), xã hội Trung Quốc có nhiều biến loạn, Hậu Chu
(951-960) và Tống phân tranh. Đinh Tiên Hoàng nhân đấy “phất cờ độc lập gióng
trống tự do” khởi nghĩa ở Hoa Lư, “mở đầu kỷ nguyên độc lập vĩ đại cho muôn
thuở” 8. Điều đáng chú ý
là trong các tác phẩm của mình, Phan đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Đinh Tiên
Hoàng (trị vì 968-979) trong quá trình giành lại quyền tự chủ cho người Việt.
Ngay cả khi phóng dịch ra văn vần tác phẩm Giai nhân kỳ ngộ (Kajin no
kigû) của tác giả người Nhật là Tôkai Sanshi (Đông-Hải Tán-Sĩ) từ bản dịch
Hán văn của Lương Khải Siêu, Phan cũng đã “bổ sung” một đoạn nhắc tới Đinh Tiên
Hoàng với lời thơ rạo rực, ấp ủ ước mơ độc lập của chính Phan như sau: “Bốn ngàn
năm còn dõi giống Lạc Hồng/Kìa biển, kìa núi, kìa sông, kìa đô ấp/Từ Đinh Tiên
Hoàng dựng cờ độc lập/Đến Nguyễn triều thu thập cõi Nam Trung/Trải xưa nay lắm
sức anh hùng/Liều trôi máu vẽ nên màu cẩm tú ...” 9.
Theo
Phan, Đinh Tiên Hoàng đã dùng biện pháp ngoại giao để tránh cho bên kia đừng
sang quấy phá hết lần này qua lần khác 10
trong khi thế lực của ta thì chửa có gì. “Bởi vậy, sau khi việc can qua đã ổn
định, ta gởi ngọc lụa 11 sang
để bên kia đỡ cảm thấy nhục nhã và cũng để làm êm dịu 12 cái
uy thế đắc thắng của ta, khiến tình cảm hơn thua, được mất giữa hai dân tộc tiêu
tan trong khung cảnh gặp gỡ hoà hiếu. Nhờ vậy ta mới có thời giờ thắt chặt hàng
ngũ, chỉnh đốn binh bị, thực thi chính thuật nhằm xây dựng chính quyền và kiến
thiết cơ sở của đất nước. Ôi ! Ngày xưa dân ta bản lĩnh vững vàng, nhãn quan sắc
bén, tầm nhìn sâu rộng đến ngần ấy ! Thật đáng ca tụng, đáng ngợi khen, đáng yêu
đáng kính, đáng sùng bái xiết bao !” 13
Phan
cho rằng việc nước ta thụ phong với Trung Quốc qua các đời chẳng qua vì đó là
“đường lối ngoại giao”. Chính vì thế, “ta coi việc thụ phong như một màn kịch
(hý) chứ không lấy đó làm điều vinh dự”. Đây là “chính sách ‘viễn giao
cận công’ mà ta đã áp dụng nhằm đối phó với Trung Quốc từ đó qua các đời Tiền
Lê, Lý, Trần, cho tới bản triều [triều Nguyễn]”. “Viễn giao cận công” 14 nói
nôm na là đối với nước ở xa thì giao tiếp để giữ quan hệ hoà hiếu, còn đối với
nước gần thì giữ thế công. Theo Phan, nhờ áp dụng sách lược này nên nước ta mới
khỏi lo về phương Bắc để “dùng nội lực mà bành trướng, sinh sôi nẩy nở ở phương
Nam” và sở dĩ “ngày nay đất nước chúng ta có được một một mảnh đất thon dài trên
bản đồ thế giới cũng là nhờ chính sách ngoại giao đó” 15.
Nào
ngờ, “đời sau lại hiểu sai dụng ý hay ho của người đời trước nên mới coi việc ỷ
lại vào bên ngoài là quốc sách (quốc thị)”, rồi “không chịu chỉnh đốn
binh bị và nội chính, xem chuyện trao tặng ngọc lụa quan trọng hơn việc xây đắp
thành luỹ” nhằm giữ nước. Phan cho rằng cái tính “ỷ
lại vào Trung Quốc tất phải xảy ra vào cuối mỗi triều đại: vua bỏ bê việc nước,
triều thần gian nịnh, không lo chỉnh đốn binh bị, chỉ xem bên kia là cha mà quên
bộ mặt hung ác của họ. Cuối đời Trần, đời Lê đều có khuynh hướng đó mà đến bản
triều thì lại càng rõ nét hơn”. Thế rồi Trung Quốc cũng nhân đó khoác lên
chiếc mặt nạ (giả diện) thiên triều để âm mưu lắm việc “nham hiểm”: “đầu
đời Minh viện cớ giúp khôi phục nhà Trần để mong biến nước ta thành một quận
huyện, sau đó thì giúp họ Mạc làm loạn, tức là trợ giúp tặc thần của nước ta ;
sang đời Thanh thì giả vờ lấy cớ phù Lê mà đưa quân sang chiếm ..., tới bản
triều vì không thấy cái họa của bánh xe đổ phía trước nên mới uỷ thác cho Bắc
triều mà không tự lập” 16.
Điều
đáng chú ý là cách giải thích lịch sử của Phan rất giống sử quan thường áp dụng
nhằm lý giải sự “đổi thay các triều đại” trong lịch sử Trung Quốc mà chữ Hán gọi
là triều đại giao thế và tiếng Anh gọi là dynastic cycle. Sử quan
này cho rằng dưới thời phong kiến, mặc dầu các vương triều thay đổi, nhưng điểm
giống nhau giữa các vương triều là các vua đầu của mỗi vương triều thường là
những minh quân, nhờ đó đất nước được thái bình thịnh trị. Nhưng những vua đời
sau của mỗi triều ngày càng nhu nhược, xao lãng quốc sự khiến xã hội loạn lạc để
rồi bị lật đổ và thay thế bởi một vương triều khác và quá trình “đầu thịnh sau
suy” này cũng sẽ tái diễn với vương triều mới. Khi phân tích lịch sử các vương
triều ở Việt Nam, Phan nhấn mạnh sự suy nhược của mỗi triều đại và tính ỷ lại
vào Trung Quốc xảy ra vào “cuối mỗi triều đại”. Cách giải thích này hoàn toàn ăn
khớp với sử quan dynastic cycle nói trên, mặc dầu rất có thể là Phan đã
không hề ý thức đến sử quan này ; hay nói cách khác, có lẽ Phan đã dựa trên
những suy nghĩ hoàn toàn độc lập của mình để đi tới kết luận đó. Những suy nghĩ
độc sáng về lịch sử nước nhà biết đâu đã không thoáng hiện sau những đêm một
mình một bóng, vừa nhìn trăng nước Côn Lôn vừa trầm tư về tiền đồ tổ quốc trong
thời gian gần ba năm trường mà Phan bị lưu đày trên hòn đảo cô quạnh
này?
Cũng
trên dòng suy tư độc sáng nói trên, Phan cho rằng ngày xưa, vì coi việc xin thụ
phong với Trung Quốc là điều vạn bất đắc dĩ nên nhiều sứ thần nước ta đã lấy
chuyện làm nhục người Trung Quốc khi đấu trí với họ là niềm vinh dự. Tuy nhiên,
sứ thần các đời sau lại huênh hoang khi đem về được một bài thơ văn, hay kể lại
tiếng khóc câu cười của sĩ phu Trung Quốc cho bạn bè nghe. “Chừng ấy cũng cho ta
thấy được sự suy thoái của sĩ phu nước nhà” 17.
Phan cho rằng những “bát cổ gia” (nhà bát cổ) giá áo túi cơm đã biến công
lao của người xưa thành nguyên nhân thất bại. Trong những tác phẩm chính luận
của Phan, danh từ “nhà bát cổ” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bởi vậy ta cần
hiểu dụng ý của Phan khi dùng từ này.
Như
chúng ta đã biết, “bát cổ văn” là một thể văn dùng trong các khoa thi
ngày xưa có 8 vế (bát cổ) đối nhau để bàn về Tứ thư. Lối văn này
được dùng vào hai đời Minh, Thanh ở Trung Quốc rồi được mô phỏng và áp dụng
trong các kỳ thi cử ở nước ta. Trong những kỳ thi, những “bài lớn về kinh truyện
cũng như về văn sách đều hỏi về lịch sử Trung Quốc, còn về lịch sử nước ta thì
chỉ hỏi vài câu sơ sài mà thôi”. Tuy Phan không định nghĩa “nhà bát cổ” là gì,
nhưng dựa theo những chi tiết mà Phan đã cung cấp trong Tân Việt Nam,
chúng ta có thể hiểu là Phan dùng từ này với ngụ ý châm biếm những nhà nho cả
đời chỉ thích viết văn chương thật kêu theo lối cử nghiệp rồi cho là mình giỏi
hơn người. Không những thế, về mặt tinh thần, theo Phan, vì những tệ hại của lối
học khoa cử, “những đặc tính vĩ đại, cái linh chất trong sáng của dân tộc từ
ngàn năm trước” bị che mờ. Kết quả là những “nhà bát cổ” mất hẳn tướng mạo xưa
nay, không biết chọn con đường tự chủ, vừa vọng ngoại lại vừa bài ngoại, vừa tự
tôn mà vừa tự ti.
Vào
những năm đầu thế kỷ XX, khi các tân thư của các nhà cải lương Trung Quốc như
Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tràn sang nước ta, một số sĩ phu bắt đầu ý thức
được đại thế mạnh yếu trong hoàn vũ. Tâm trạng rạo rực của họ vào lúc đó được
Phan mô tả như sau: “Một hôm, bỗng nhiên chợt tỉnh cơn mê, như vén mây mù trông
thấy trời xanh, như vừa ra khỏi buồng tối nhìn thấy mặt trời hay mặt trăng. Niềm
vui đó nói sao cho hết !” Nhưng trước bức tranh tối tranh sáng của buổi giao
thời, dân chúng lại rất mực hoang mang, không biết đâu mà phân biệt thật giả.
Trước tình huống khẩn bách như thế, theo Phan, đáng lẽ phải “nhờ một hai chí sĩ
thông hiểu thời cuộc hoạch định đường lối mà dìu dắt dân chúng”. Tuy nhiên, trên
thực tế “người thông hiểu thì ít mà kẻ ngoan cố lại nhiều” và độc hại do sự sai
lầm của các nhà bát cổ gây ra vẫn còn đầy rẫy 18.
Đột
nhiên, vào tháng 2 năm 1904, cả nước giật mình sửng sốt bởi cái tin sét đánh:
chiến tranh Nhật-Nga đã bùng nổ. Trung Quốc cũng đang vùng dậy tìm cách tự
cường. Những sĩ phu tâm huyết ở nước ta cảm thấy náo nức, muốn tìm đường cứu
nước. Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà vào thời điểm này bùng lên phong trào đấu
tranh giành độc lập dân tộc ở Việt Nam của các sĩ phu yêu nước mà Phan và Phan
Bội Châu (PBC) là hai nhân vật cự phách nhất trong 25 năm đầu của thế kỷ XX.
Mối
quan hệ giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu:
Tuy cùng mang hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan rất khác
nhau, thậm chí về sau trở thành đối lập. Phan chủ trương bất bạo động và hoạt
động hợp pháp (minh xã), khởi xướng thuyết tự trị, kêu gọi canh tân để tự
cường qua chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, rồi từng bước giành lại độc lập quốc
gia. Lập trường của Phan được một số thân sĩ chịu ảnh hưởng tân học như Trần Quý
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, v.v. biểu đồng tình. Ngược
lại, PBC chủ trương bài Pháp kịch liệt, hô hào lật đổ chính quyền thuộc địa bằng
phương tiện bạo động và bí mật (ám xã). Cần nói thêm là trong khoảng thời
gian cuối đời sống trong tình trạng bị giam lỏng ở Huế từ năm 1925 cho đến khi
từ trần (1940), PBC có thái độ chính trị ôn hòa so với thời kỳ hoạt động ở hải
ngoại.
Suốt
đời hai nhà chí sĩ họ Phan gặp nhau tất cả 3 lần :
1)
Lần gặp gỡ đầu tiên ở Huế vào năm 1903 (Quý Mão): Năm này có kỳ thi Hội, PBC lúc
ấy đang lấy tư cách Cử nhân ghi danh ở trường Quốc tử giám, có dự thi nhưng
không đỗ, còn Phan thì đã đỗ Phó bảng vào kỳ ân khoa năm Tân Sửu (1901). Tuy thi
Hội không đỗ, nhưng PBC nổi tiếng hay chữ và lại vừa trước tác cuốn Lưu Cầu
huyết lệ tân thư — mượn việc Lưu Cầu mất nước mà bàn chuyện nước ta và giải
bày chính kiến của mình. Trong hồi ký Tự phán, PBC ghi lại là sau khi
trình tác phẩm này với Thượng thư Bộ Binh là Hồ Lệ người Duy Xuyên (Quảng Nam),
“ông bảo môn hạ, thuộc lại sao chép và cho các thân sĩ đồng hương xem, vì vậy
tác phẩm này được sĩ phu Nam–Ngãi truyền tụng. Những nhà chí sĩ như các cụ Tây
Hồ [Phan Châu Trinh], Thai Xuyên [Trần Quý Cáp], Thạnh Bình [Huỳnh Thúc Kháng]
nhân đó mới trở thành bạn tâm phúc (mạc nghịch hữu) của tôi, cho đến
những người đồng chí như Ngũ Lang, Ấu Triệu lúc ấy mới bắt đầu biết tôi, tất cả
đều nhờ vai trò trung gian của cuốn sách ấy” 19.
Chắc hẳn PBC đã không ít chủ quan khi thuật lại là Phan nhân đọc cuốn Lưu Cầu
huyết lệ tân thư mới trở thành bạn tâm phúc của tôi”. Bởi lẽ Huỳnh Thúc
Kháng, người được xem là có trí nhớ chính xác và cặp mắt khách quan nhất lúc bấy
giờ, đã ghi lại trong Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử: “Tiên sinh [Phan
Châu Trinh] đã nghe tiếng ông Sào Nam, lại thấy sách ấy, cho là người hào kiệt
nóng lòng việc nước, mà kiến thức thì chưa thoát vòng khuôn sáo cũ” 20, và
bản thân Phan cũng nhấn mạnh điểm khác biệt về lập trường giữa hai người ngay từ
buổi gặp gỡ đầu tiên.
2)
Lần thứ hai ở Quảng Nam vào năm 1904: Vào tháng chạp năm này 21, PBC
vào Quảng Nam để bàn luận với Tiểu La Nguyễn Thành về kế hoạch Đông độ của cụ và
Tăng Bạt Hổ. Chuyến đi sang Nhật của PBC có mục đích xin viện trợ quân giới bởi
lẽ theo nhận định của Nguyễn Thành và PBC, “Nhật Bản là nước da vàng mà lại đang
giao chiến với Nga nên dã tâm lại càng lớn” 22. Về
buổi gặp gỡ lần thứ hai với Phan, PBC ghi lại trong hồi ký như sau : “bắt đầu
tôi ở nhà Tiểu La, đến thăm nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Thạnh Bình, nhân có cụ Tây
Hồ và cụ Thai Xuyên Trần Quý Cáp đều đang ở đấy, nói chuyện suốt đêm rất vui” 23. Tuy
nhiên, theo lời thuật lại của Huỳnh Thúc Kháng thì trong buổi gặp gỡ tình cờ
này, Phan cũng đã bác bỏ kịch liệt lập trường của PBC trong Lưu Cầu huyết lệ
tân thư: “Tiên sinh [Phan Châu Trinh] mới gặp ông Sào Nam, bác riết bài
Lưu Cầu huyết lệ, cho là không hợp với thời thế cuộc đời bây giờ ; song
ông Sào Nam lúc đầu đang nóng về chủ nghĩa bài ngoại nên cũng không chịu phục”
24.
3)
Lần thứ ba, hai cụ Phan gặp nhau trong vòng mấy tháng vào năm 1906: Thoạt đầu,
PBC đang ở Nhật nghe tin Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đã rời Việt Nam, PBC từ Nhật về
Hương Cảng đón rồi đưa Hầu đi Sa Hà (Quảng Đông) thăm cụ Tán lý Quân vụ Nguyễn
Thiện Thuật (Tán Thuật) đang tá túc ở nhà của cựu tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc.
Vào thời điểm này, Phan cũng vừa sang tới Hương Cảng. Nghe tin PBC vừa đi Quảng
Đông, Phan tìm đến ngay nhà họ Lưu. Theo lời thuật lại của PBC, trong thời gian
Phan ở Quảng Đông, PBC đem bài “Khuyến quốc dân du học văn” (Khuyên quốc
dân du học) mà PBC viết cho Phan xem, Phan “khen hay”. “Nhưng đến khi xem
‘Duy Tân Hội chương trình’ (Chương trình của Hội Duy Tân) thì ông [Phan]
lặng yên, chỉ nói: ‘Tôi rất muốn sang Đông Kinh cho biết rồi sẽ về nước ngay’.
Tôi hiểu là từ lúc ấy ý hướng mà ông ấp ủ trong lòng khác với ý hướng của tôi”
25.
Trên thực tế thì như chúng ta đã thấy, không phải từ lúc này mà hai năm trước
đó, trong lần gặp gỡ đầu tiên ở Huế giữa hai người, Phan đã biểu lộ sự bất đồng
ý kiến của mình đối với lập trường của PBC.
Sau
đó, PBC đưa Kỳ Ngoại Hầu và Phan sang Nhật. Trong tự truyện, PBC kể lại một số
chi tiết về Phan trong thời gian ở Nhật như sau:
Thượng
tuần tháng tư âm lịch [cuối tháng 5 dương lịch], tôi đưa học sinh lên Đông Kinh
để vào trường. Cụ Tây Hồ cùng đi với tôi để tham quan trường ốc và khảo sát
thành quả chính trị và giáo dục của Nhật Bản. Cụ bảo tôi: “Trình độ quốc dân
Nhật Bản như thế này mà trình độ quốc dân ta như thế kia thì không làm nô lệ sao
được? Nay được bấy nhiêu học sinh vào trường Nhật là sự nghiệp rất lớn của ông.
Ông nên ở lại Nhật Bản tĩnh dưỡng, chú tâm vào việc viết sách, bất tất hô hào
bài Pháp làm gì. Chỉ nên đề xướng dân quyền, dân mà đã biết có quyền tức mọi
việc khác có thể lo tính dần dần”.
Trong
khoảng hơn mười ngày, cụ với tôi tranh luận qua lại, ý kiến rất trái ngược nhau.
Cụ muốn đánh đổ quân quyền nhằm vun trồng gốc rễ dân quyền. Tôi thì muốn trước
hết đánh đuổi giặc ngoài [Pháp], chờ lúc nước nhà độc lập rồi mới có thể bàn tới
việc khác. Ý tôi là muốn lợi dụng quân chủ thì cụ cực lực phản đối. Ý cụ muốn
đề cao dân quyền và bài bác quân chủ thì tôi hết sức không tán thành. Bởi vì cụ
và tôi tuy có cùng chung mục đích nhưng thủ đoạn thì khác xa nhau. Cụ thì muốn
dựa Pháp để đánh đổ quân quyền, mà tôi thì muốn bài Pháp phục Việt, khác nhau là
thế. Mặc dù chính kiến của cụ trái hẳn với tôi, nhưng tính khí thì rất thích
tôi. Cụ với tôi kề gối chung giường khoảng một tháng rồi tỏ ý muốn trở về nước …
Tôi đưa cụ Tây Hồ về tới Hương Cảng. Đó là hôm giã từ cụ lần cuối cùng. Cụ bảo
tôi: “Ông nên bảo trọng. Quốc dân chỉ trông chờ vào ông, chứ Kỳ Ngoại Hầu thì
không hy vọng gì đâu”. Tôi kính cẩn nhận lời, đinh ninh sẽ có dịp gặp lại nhau
rồi tôi gửi lời chúc các cụ Thai Xuyên, Thạnh Bình, Tập Xuyên … ráng sức mở mang
dân trí, tổ chức nhiều đoàn thể để làm hậu thuẫn cho tân đảng 26.
Lúc
ấy là vào trung tuần tháng 5 âm lịch, tức đầu tháng 7 năm 1906. Về tới Hà Nội,
Phan thảo ngay một bản điều trần gởi cho Toàn quyền, Khâm sứ cùng các nhà báo,
nói lên tình hình nguy nan của đất nước, tình tệ quan lại, và yêu cầu sửa đổi
chính sách bảo hộ. Bức thư này về sau được gọi là “Đầu Pháp chính phủ
thư” (Bức thư gửi chính phủ Pháp). Sau khi thư này được công bố, chính sách
cai trị của nhà nước thuộc địa ở Đông Dương được dư luận Pháp quan tâm hơn trước
và một số người Pháp tiến bộ như Babut, chủ báo Đại Việt, muốn kết giao
với Phan và mời Phan cộng tác. Ngược lại, giới quan trường Nam triều lại xem
Phan “như cái gai trước mắt” 27 và
trong những người gióng trống canh tân lúc bấy giờ họ “ghét sợ nhất là Phan Châu
Trinh và Trần Quý Cáp vì hai người này có thiên tài hùng biện lôi cuốn người
nghe ...” 28.
Cùng với các nhân sĩ Hà Thành như Lương Ngọc Can, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Quyền,
... Phan góp phần quan trọng vào việc sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Những buổi đăng đàn diễn thuyết “người đông như hội” mà Phan là một trong những
diễn giả được mến mộ và “mốt Tây Hồ” với bộ cồm-lê bằng vải nội hóa do Phan
“lăng-xê” nay đã trở thành những hình ảnh sống động về những ngày đầu của phong
trào duy tân ở nước ta vào đầu thế kỷ XX.
Sau
khi Phan về lại Việt Nam có người viết thư cho PBC nói là Phan về nước “không
lợi cho anh em, vì ông xướng chủ nghĩa dân chủ” 29.
Nghe tin ấy, PBC gửi Phan một bức thư đề nghị không nên vội hô hào dân chủ, với
lời lẽ giải bày hơn thiệt như sau: “Than ôi ! Mấy mươi năm hụp lặn trong ao tù
nô lệ lý thuyết phong kiến, biết đâu những chuyện Lư Thoa, Mạnh Đức … Tình trạng
như thế, việc hợp quần khó lắm đại huynh ạ ! … Ôi dân chủ, ‘dân’ không còn nữa
thì ‘chủ’ vào đâu? Lúc bấy giờ nếu đại huynh có bầu nhiệt huyết cũng không còn
chỗ thi thố nữa” 30.
Tuy
nhiên, những khác biệt giữa lập trường của hai cụ Phan sau đó hình như ngày càng
rõ nét, đặc biệt trong nhận thức của Phan. Lý do là vì PBC cùng các đồng chí
trong nhóm ám xã đang ở nước ngoài nên nhà cầm quyền không thể nào đàn áp
trực tiếp vì cho dẫu “roi dài cũng không đụng tới” (tiên trường mạc cập),
còn Phan thì ở trong nước nên đã cùng các thân sĩ trong minh xã ở trong
thế chống mũi chịu sào nên “đều bị bắt không sót một ai” 31. Bởi
vậy, khi phong trào chống sưu thuế bắt đầu ào ạt nổi lên ở Quảng Nam và các tỉnh
miền Trung từ tháng 2 năm 1908 theo lời kêu gọi của PBC cùng các đồng chí trong
nhóm bài Pháp từ hải ngoại thì Phan bị nhà chức trách áp giải từ Hà Nội về Huế
để tống giam. Lý do là quan trường vốn ghét Phan, nay nhân dịp trả thù, đổ tội
nhóm dân quyền đã gây ra vụ dân biến và xem Phan chính là người chủ xướng và đã
ngấm ngầm cấu kết với “người bội quốc là Phan Bội Châu”. Lúc đầu Phan bị kết án
tử hình, sau được giảm án, thành đày ra Côn Đảo suốt đời, “gặp ân xá cũng không
tha” (ngộ xá bất nguyên) 32.
Phan bị đày ở Côn Đảo từ tháng 6 năm 1908. Sau non 3 năm, nhờ có sự can thiệp
của Hội Nhân quyền nên Phan được phóng thích và sau đó sang Pháp vào tháng 4 năm
1911.
Phan
Bội Châu dưới cặp mắt của Phan Châu Trinh trong Tân
Việt Nam :
Như đã đề cập ở phần đầu, Tân Việt Nam được trước tác trong khoảng thời
gian Phan mới đến Mỹ Tho sau khi được thả từ Côn Đảo. Vào thời điểm này, tri kỷ
của Phan là Trần Quý Cáp đã bị sát hại ở Khánh Hòa và những người bạn thân thiết
khác như Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, ... thảy đều bị lưu đày ở Côn Đảo sau vụ
dân biến ở Trung Kỳ và binh biến ở Hà Nội (tức vụ đầu độc binh lính Pháp xảy ra
vào ngày 27 tháng 6 năm 1908) 33. Bởi
vậy Phan cảm thấy không thể không minh oan cho những đồng chí của mình.
Theo
Phan, hai vụ dân biến và binh biến “đều do lời cổ động trong những trước tác của
PBC và đã được thực hiện không chút sai sót” 34. Vụ
dân biến sở dĩ có hậu quả xấu xa một phần cũng vì “quan lại Nam triều phản ứng
quá mức 35, rồi
hai phái bài Pháp và tự trị kích bác lẫn nhau”. Phan cho rằng binh biến là kết
quả tất yếu của dân biến, vì một khi “chủ nghĩa tự trị đã bị chủ nghĩa áp chế
đánh bại, người bị tù bị chết đầy rẫy, người ta biết chủ nghĩa tự trị dựa Pháp
ắt không thành công thì cái thế tất yếu là không thể không chạy theo đảng bài
Pháp. Do đó nghĩ đến bạo động là cái thế phải đến, cái lẽ tất nhiên” 36.
Theo
Phan, sở dĩ Phan bị nghi ngờ là do mối liên hệ giữa Phan và PBC. Bởi vậy, trong
Tân Việt Nam, nhằm minh oan cho các đồng chí đã chết hay còn bị tù đày
Phan giải thích tường tận những khác biệt giữa Phan và PBC về chủ trương cũng
như về đường lối hoạt động. Những thông tin độc đáo trong Tân Việt Nam
giúp người đọc nhận thức rõ hơn tâm trạng của Phan khi bị tù đày ở Côn Đảo
và trong khoảng thời gian cư ngụ ở Pháp sau này. Trước khi đưa ra một số nhận
xét và đánh giá tổng quát, chúng tôi sẽ trình bày cách nhìn của Phan về con
người của PBC.
Theo
nhận xét của Phan, thoạt kỳ thủy không có đảng phái mà chỉ có hai chủ nghĩa
tranh luận với nhau mà thôi. PBC chủ trương bạo động, nhưng trong lần gặp gỡ với
Phan tại Huế vào khoa thi Hội năm Quý Mão (1903), khi Phan bác bỏ chủ trương bạo
động thì PBC cũng đồng ý là cả hai cùng đứng lên kêu gọi sĩ phu dâng sớ xin bãi
bỏ khoa cử, cải cách luật pháp và chế độ (biến pháp) 37. Khi
công việc kêu gọi đang tiến hành tốt đẹp thì PBC vì thi hỏng nên không ký tên,
sĩ phu vì thế cũng bắt chước không chịu ký bởi lẽ uy tín của PBC rất lớn trong
giới sĩ phu 38. Sau
đó, PBC sang Nhật và từ lúc này trở đi mới có hai đảng: đảng cách mạng do PBC
sáng lập có bộ phận ở trong nước và ở ngoài nước, và đảng tự trị do Phan khởi
xướng thì không có trong ngoài 39.
Về
mối quan hệ với PBC, Phan ghi lại như sau: “Lịch sử cuộc đời của PBC là một
trang sử u sầu ảm đạm, một lịch sử đầy gian truân vất vả. Lịch sử của ông cũng
là lịch sử đời tôi. Tính chất giống nhau, chí khí giống nhau, cảnh ngộ giống
nhau, nhưng ý kiến không giống nhau và chủ nghĩa thì khác hẳn. Bởi vậy ban đầu
thì thương nhau mà cuối cùng thì xa nhau, trước là bạn mà sau là địch. Tôi sở dĩ
không ngại hiềm nghi, không nề đường sá cách trở để theo tận hải ngoại cũng vì
ông ấy. Tôi sở dĩ bất chấp sống chết, đụng chạm tới kỵ húy nhằm hô hào người
trong nước cũng vì ông ấy. Tôi thất bại chẳng còn chút gì, đồng chí bạn bè bị tù
đày hay phải hy sinh đầy rẫy, và cho tới nay cũng vì ông ấy mà tôi hãy còn bị
nghi kỵ và không giải bày tâm sự được” 40.
Phan
cho rằng “nếu không biết rõ nhân cách của PBC cùng lý do vì sao ông lợi dụng
quốc dân thì không làm sao hiểu được tại sao tôi đã phản đối ông ấy từ đầu đến
cuối” 41.
Theo Phan, “PBC là người rất giàu chí khí, nhiều nghị lực, chịu nhẫn nhục và dám
làm (cảm vi). Một khi ông đã tin vào điều gì rồi thì quyết không bỏ, cho
dù sấm sét cũng không thay đổi”. Trong giới sĩ phu ở nước ta lúc đó, “không ai
có thể sánh với ông ấy” 42. Đó
là những ưu điểm của PBC. Theo Phan, “vì chủ trương bạo động bị Phan bác bỏ
nhiều lần nên PBC không thích giao du” cùng Phan. Phan kể là trong lần hai người
tranh luận với nhau ở Hương Cảng, “ông ấy đuối lý rồi khóc sướt mướt — tôi
thương ông chỗ ấy” 43. Về
nhược điểm của PBC, Phan nhận xét: “Tiếc thay ông ấy học thức nông cạn, không rõ
thời thế, thích dùng thủ đoạn và mánh khóe (quyền thuật), tự dối mình và
dối người, đầu óc ngoan cố khăng khăng không chịu thay đổi ... Chủ nghĩa phục
thù cực đoan của PBC thật ngoan cố và sai lầm cùng cực, đã không hợp lý luận,
không hợp thời thế mà lại còn đẩy đồng bào vào chỗ chết (tử địa)” 44.
Dưới mắt Phan, PBC là “người có lòng yêu nước nhưng không biết cách thương nước”
(hữu ái quốc chi tâm nhi bất tri sở dĩ ái quốc chi đạo) 45.
Phan kể lại như sau: “PBC thường nói ‘Bình sinh sở học của tôi đắc ý nhất ở chữ
Nhân trong sách Luận ngữ’. Tôi mới nói đùa: ‘Sở đắc của anh là ở bộ
Chiến quốc sách, nếu quả là sách Luận ngữ thì tôi sợ anh sẽ
đem nửa bộ giết người trong nước và nửa bộ để giết thân anh. Ông bực tôi lắm” 46.
Phan
cho rằng PBC là người “cực kỳ thủ cựu, nhất thiết không chịu đọc Tân
thư”. Bởi thế, “những trước tác của ông ấy không căn cứ vào lý luận, không
khảo sát thời thế, khi thì chửi tràn, khi thì khóc than thống thiết”. Sự thật,
dưới mắt Phan, PBC là “nhà yêu nước bị biến tướng bởi cái học văn chương tám vế”
(bát cổ biến tướng chi ái quốc gia) 47, là
“nhà bát cổ” điển hình mang những tập tính do ảnh hưởng của cái học khoa cử đã
đề cập ở phần trên. Phan viết: “[Các trước tác của PBC] xem ra toàn là biến thể
của văn chương bát cổ, không có mảy may một chút giá trị, nhưng vì trình độ và
tính cách thích hợp với quốc dân, nên dân mới bị lừa theo” 48.
Không những thế, cá tính con người PBC biểu hiện “những quán tính lâu đời của
người Việt Nam, gồm những mặt tốt đẹp nhất cho tới những mặt thiếu sót, kém cỏi
nhất” 49.
Phan giải thích: “... Ông ấy là người đại biểu cho những tập quán có từ ngàn xưa
trong lịch sử của dân tộc nước Nam. Không biết chân tướng của người nước Nam,
xem ông ấy thì biết được. Người dân nước Nam rất giàu tính bài ngoại, ông ấy bài
ngoại đến chỗ cực đoan. Người nước Nam rất thích ỷ lại vào người nước ngoài thì
ông ấy ỷ lại đến chỗ cực đoan. Người dân nước Nam rất thiếu tính tự lập thì ông
ấy lại càng thiếu cùng cực. Tính cách và trình độ của ông ấy nhất nhất đều tương
hợp với tính cách và trình độ của quốc dân, bởi vậy ông nhân ưu điểm và khuyết
điểm của quốc dân mà lợi dụng. Đây là điều thầy thuốc gọi là thuật ‘lấy độc trị
độc’ (tắc nhân tắc dụng chi thuật)” 50.
Mặc
dù Phan không nói rõ “danh sĩ” trong đoạn sau đây là ai, nhưng đọc qua ta có thể
đoán ngay được nhân vật Phan muốn ám chỉ không ai khác hơn là PBC: “Ngày nay có
danh sĩ tự phụ là yêu nước mà không biết tập trung hết sức vào trong nước mà đề
xướng quốc dân, rồi như sư tử ngủ mê, ngợi khen cường quyền của Đảo quốc [Nhật
Bản], nói năng ngông cuồng không nghĩ tới lợi hại, chỉ muốn mời một nước thứ ba
“khẩu Phật tâm xà” không có lấy chút nhân đạo (tận vô nhân lý) để đem
giao phó tất cả vận mệnh đất nước cho được mới bằng thích. [Danh sĩ ấy] không
hiểu rằng nước đó hiện nay không có sức nên để vậy mà không quyết đoán, chứ nếu
quả thật có sức thì còn đợi ta cầu làm gì? Hãy trông Triều Tiên, các đảng phái
liên Nga liên Nhật chia năm xẻ bảy, rốt cuộc bây giờ hoàng hậu thì bị sát hại,
nhà vua thì bị giam cầm, tù tội liên miên và cảnh giết chóc vẫn chưa yên. Cầu đã
được đấy mà lợi thì không thấy đâu cả” 51. Cần
để ý là Tân Việt Nam được Phan trước tác vào 1910-1911, tức chẳng bao lâu
sau khi Triều Tiên bị Nhật Bản sáp nhập, bởi vậy niềm lo lắng của Phan không
phải là hoàn toàn vô căn cớ.
Nếu
Phan đã rất mực thẳng thừng khi phê phán chủ trương bạo động của PBC, điều khiến
ta không khỏi ngạc nhiên và cảm phục là Phan cũng không kém thẳng thừng và khách
quan khi dự đoán về khả năng thất bại của đường lối mà chính bản thân Phan đang
theo đuổi: “Tôi tự biết những lý do mà chủ nghĩa của ông ấy đưa ra thì rất yếu,
nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của dân nước Nam thì rất mạnh. Chủ nghĩa của tôi,
lý do đưa ra thì rất mạnh, nhưng nếu áp dụng vào đặc tính của người nước Nam
trong tình thế hiện tại thì rất yếu. Chủ nghĩa của ông ấy rất hợp với đặc tính
và trình độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ mạnh mà lợi dụng và vì ở hải ngoại
nên ngôn luận tự do, dễ có người theo, do đó chủ nghĩa ông ấy sẽ tất thắng. Chủ
nghĩa của tôi tương phản với đặc tính và trình độ của quốc dân, lại nhắm vào chỗ
yếu mà cứu và vì ở trong nước nên bị các thế lực chèn ép và nghi kỵ tập trung
vào, các hoạt động và ngôn luận đều không được tự do nên người theo cũng khó, do
đó chủ nghĩa của tôi tất bại” 52.
*
Có
thể nói rằng một trong những ý nghĩa quan trọng của Tân Việt Nam là qua
tác phẩm này lần đầu tiên ta thấy rõ lập trường khác biệt giữa Phan và PBC.
Vào
năm 1925, khi hai nhà chí sĩ lần lượt về lại Việt Nam, lập trường của họ có thay
đổi gì chăng so với 20 năm trước đó ? Về phía Phan, nhận thức về PBC hầu như
không có gì thay đổi. Trong bài diễn văn nói về “Đạo đức và luân lý Đông Tây”
đọc tại nhà Hội Việt Nam ở Sàigòn vào cuối tháng 11, 1925, khi thuyết giải về
lòng thương nước của người Việt, Phan vẫn phê phán chủ trương bạo động và lập
trường vọng ngoại của PBC: “Cái ‘thương nước’ tôi nói ở đây không phải là xúi
dân ‘tay không’ nổi lên, hoặc đi lạy nước này cầu nước khác về phá loạn trong
nước đâu ! Tôi xin thưa : Nước ta đã hư hèn bị mắc trong tay người ta rồi, thì
bây giờ ta phải đem lòng thương nước, bênh vực lẫn nhau, mà giúp cho nhau để cứu
chuộc lại cái danh giá cùng lợi quyền của ta về sau ... Thương nước cho phải
đường mới gọi là thương nước, nếu thương nước không phải đường thì đã không ích
gì cho ai mà lại còn làm hại sinh linh nữa” 53.
Về
phần PBC, rõ ràng là có những chuyển biến sâu sắc sau khi cụ về sống những năm
cuối đời ở Huế trong tình trạng bị giam lỏng. Vào tháng 3 năm 1927, trong dịp kỷ
niệm ngày giỗ một năm của Phan, PBC đã viết những dòng sau đây : “Than ôi! Ông
có thứ cho tôi chăng? Lúc ông [từ Nhật Bản] về nước [1906], tôi tiễn chân ông
đến Hương Cảng, ông cầm tay tôi dặn mấy lời sau hết: ‘Từ thế kỷ 19 về sau, các
nước tranh nhau ngày càng dữ dội, cái tính mạng một nước, gửi trong tay một số
người đông, chứ không thấy nước nào không có dân quyền mà khỏi mất nước bao giờ.
Thế mà nay Bác lại còn dựng cờ quân chủ lên hay sao?’ Ông nói thế, lúc bấy giờ
tôi chưa có câu gì đáp lại, nay đã hơn 20 năm rồi, lời ôn càng lâu, càng nghiệm.
Tôi mới biết cái óc suy nghĩ cùng cái mắt xem xét của tôi thiệt không bằng ông!
Phỏng ngày nay ông còn sống thì cầm cờ hướng đạo cho chúng ta, hẳn phải nhờ tay
ông mới được. Than ôi! Ngày nay những kẻ cúng vái ông, kính mến ông, có phải là
chỉ ngắm tượng ông, đọc văn ông góp nhặt năm ba câu làm bộ ái quốc, ái quần đầu
miệng mà thôi ư? Phải biết rằng ông Hy Mã mà được danh tiếng lưu truyền với sử
xanh là vì ông có chủ trương thiệt, tinh thần thiệt” 54.
Hoặc giả, trong tập hồi ký Tự phán viết chẳng bao lâu sau đó, PBC cũng đã
bộc bạch: “Than ôi, lịch sử tôi là lịch sử của trăm điều thất bại mà không có
lấy một điều thành công. Bôn ba trôi nổi gần ba mươi năm, vì liên lụy với tôi mà
kẻ chết người tù, tai ương tràn cả nước, độc hại lan khắp đồng bào. Mỗi khi tỉnh
giấc nửa đêm lòng tự bảo lòng rồi gạt lệ nhìn trời ; hai mươi năm lần lữa, trông
râu mày mà hổ thẹn” 55.
Cần
để ý là trong khoảng thời gian ở Pháp, Phan bị nhà đương cuộc Pháp bắt giam ở
ngục Santé gần 10 tháng (tháng 9, 1914 đến tháng 7, 1915) vì bị tình nghi là đã
thông đồng với Đức nhờ giúp chống lại Pháp bằng phương tiện vũ trang. Trong
ngục, Phan không chịu khuất phục, cực lực phản đối sự vu cáo, dọa nạt của nhà
đương cuộc và dùng lý lẽ để chứng minh mình là “người không có tội”. Trong một
bức thư gửi cho thẩm phán tòa án quân sự, Phan viết: “Quan lớn là một tên quan
án gian dối, thay mặt cho quân thù nghịch tôi, lấy ý riêng mà bắt tôi, giam tôi,
thì từ nay về sau, tôi cứ đem lời lẽ ra mà chống cự lại với những việc gian dối
không công bình của quan lớn” 56.
Có
thật Phan muốn nhờ cậy thế lực của Đức nhằm chống lại Pháp như lời buộc tội của
quan tòa ? Hay Phan hoàn toàn vô tội và đã bị bắt oan ? Lập trường của Phan
trong thời kỳ Âu chiến đã gây thắc mắc, hoài nghi cho nhiều nhà nghiên cứu từ
trước tới nay 57.
Trong trường hợp PBC, chúng ta có thể khẳng định là cụ đã tìm cách cầu viện Đức,
đặc biệt trong thời kỳ Âu chiến, nhằm chống lại Pháp bằng cách liên hệ với các
văn phòng ngoại giao của Đức ở Bắc Kinh và ở Bàng Cốc (Thái) 58.
Nhưng Đức không phải là nước duy nhất mà PBC muốn cầu viện nhằm chống lại Pháp,
vì cho đến khi về nước vào năm 1925 PBC luôn luôn chủ quan nghĩ rằng nếu không
có sự giúp đỡ của Trung Quốc và Nhật Bản thì người Việt không thể nào giành lại
độc lập từ người Pháp. Vô hình trung PBC đã cả tin rằng chỉ có Pháp, một mình
nước Pháp mà thôi, mới có ý đồ đen tối đối với Việt Nam. Nhưng lập trường của
Phan thì khác hẳn. Qua Tân Việt Nam (cùng các tác phẩm chính luận khác),
ta thấy Phan nhiều lần bác bỏ lập trường của PBC là vừa bài ngoại (Pháp) mà lại
vừa vọng ngoại, và như đã trình bày, Phan giữ vững lập trường này cho tới lúc
lìa đời. Bởi vậy, đối với một nhà chí sĩ “đen trắng phân minh” và có lập trường
kiên định như Phan, thật khó hình dung là Phan lại trông cậy vào thế lực của
nước ngoài, cho dù nước đó là nước Đức, là nước Trung Hoa, hay là nước Nhật.
Ngay khi còn bị lưu đày ở Côn Đảo, Phan đã từng nói : “Chưa có tư cách quốc dân
độc lập, dầu có nhờ cậy ở nước ngoài chỉ diễn cái trò ‘đổi chủ làm đầy tớ lần
thứ hai’, không ích gì ..., mình không tự lập, ai cũng là kẻ cừu của mình ...”
59. Nói
ngắn gọn, ta có thể không đồng ý với chủ trương và chính kiến của Phan, nhưng
theo thiển kiến, khó có thể nghi ngờ về nhân cách cùng tấm lòng xả thân vì nước
của Phan.
Để
kết thúc bài này, xin mượn lời nhận xét chí lý sau đây của Huỳnh Thúc Kháng về
cuộc đời của Phan : “Như tiên sinh, không những là
một người chí sĩ yêu nước, mà thật là một nhà chính trị cách mạng đầu tiên nước
Việt Nam ta vậy. Một kẻ sĩ vai gánh giang sơn, lòng thương nòi giống, một mình
xông đột trăm cách toan lường, trong hai mươi năm thừa, trải biết bao hiểm
nghèo, nếm biết bao mùi cay đắng ... thế mà tiên sinh cứ khăng khăng ôm một cái
chủ nghĩa, đeo đẳng mãi với cảnh hoạn nạn mà không chịu rời ra ; không những
danh vị lợi lộc không dỗ dành được, cực khổ không đổi dời được ; cho đến gươm kề
trên cổ, súng gí trước bụng cũng cũng không chút nào lay chuyển, sánh với ông
Sào Nam [PBC], chí khí đồng nhau, nhiệt thành đồng nhau, phách lực đồng nhau, mà
cái cảnh càng khó, cái lòng càng khổ hơn vậy” 60.
* Giáo sư Đại Học Alberta, Canada
Chú thích
1
Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh -- Cuộc đời và tác phẩm
(Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987 ; Nxb Văn Học, 2001, tái bản và có bổ sung) và
Nguyễn Văn Dương biên soạn, Tuyển tập Phan Châu Trinh (Nxb Đà Nẵng và
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1995).
2 Albert Sarraut (1872-1962) làm toàn quyền Đông Dương từ tháng 11,
1911 cho đến tháng 11, 1913 và từ tháng giêng 1917 cho đến tháng 5, 1919.
Sarraut là người duy nhất giữ chức vụ này hai lần. Sau đó, Sarraut làm bộ trưởng
Thuộc địa (1920-1924 và 1932-1933) và thủ tướng (năm 1933 và năm
1936).
3 Văn bản chữ quốc ngữ và chữ Pháp gồm 9 trang này hiện còn lưu trữ
trong hồ sơ của văn khố Bộ Thuộc địa cũ.
4 Theo nghiên cứu của ông Nguyễn Q. Thắng, Trần Tiêu là một trong
những môn đệ của ông Lê Ấm. Vì rất ngưỡng mộ Phan Châu Trinh, Trần Tiêu đã đọc
và sao chép nhiều tác phẩm của Phan. Xem Nguyễn Q. Thắng, sách đã dẫn, trang
191.
5 Trong Tuyển tập Phan Châu Trinh, nhà nghiên cứu Nguyễn
Văn Dương xem những hàng chữ nhỏ này là chú thích của Phan nên đã đưa phần dịch
những hàng này vào chú thích cuối trang. Dựa vào lý do nêu ra ở trên, chúng tôi
cho rằng phần lớn những hàng chữ nhỏ đó không phải là chú thích mà đã do Phan
viết thêm trong khi nhuận sắc dở dang “vị định cảo” này.
6
Tân Việt Nam (bản chữ Hán),
trang 2. Những phần trích dẫn trong bài này từ Tân Việt Nam là do chúng
tôi dịch từ nguyên văn chữ Hán, số trang trích dẫn là số trang ghi ở đầu mỗi
trang của nguyên bản di thảo. Trước đây tôi đã để là Pháp Việt liên hợp ;
nay xin sửa lại là Tân Việt Nam cho đúng với đề tắt hơn. Chúng tôi thành
thật cám ơn bà Lê Thị Kính (tức Phan Thị Minh, cháu nội Phan Châu Trinh) và học
giả Nguyễn Văn Xuân ở Đà Nẵng đã sốt sắng giúp đỡ khi chúng tôi xin phép chụp
lại di thảo này. Tác giả cũng thành thật cám ơn bà Nguyễn Thị Bình (cháu ngoại
của Phan Châu Trinh) đã để lại một ấn tượng sâu sắc về Phan Châu Trinh qua Hội
thảo năm 1990 ở Đà Nẵng.
7
Tân Việt Nam, trang 2.
8
Như trên, trang 3.
9
Phan Châu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ. Lê Văn Siêu bình giải và chú thích
(Sàigòn : Nxb Hướng Dương, 1958), trang 275. Khi biên tập, nhà nghiên cứu Lê Văn
Siêu đã vô tình lấy đoạn này ra và cho vào phần phụ lục.
10
Như trên. Nguyên văn là “quyển thổ trùng lai”, tức “cuốn đất trở lại”, ý
nói thua keo này lại bày keo khác. Sau khi Tần bị diệt vong, võ tướng nước Sở là
Hạng Võ (tức Hạng Tịch ; 232-202 trước CN) tranh hùng với Lưu Bang. Hạng Võ thua
trận, chạy đến bến sông Ô, được Đình Trưởng mời qua sông nhằm tạm lánh ở Giang
Đông rồi mưu việc khôi phục. Hạng Võ không nghe, dùng gươm tự sát. Trong bài “Đề
Ô Giang đình thi” (Bài thơ đề ở đình sông Ô), Đỗ Mục có câu : “Giang Đông tử
đệ đa tài tuấn/Quyển thổ trùng lai vị khả tri” (Con em ở Giang Đông còn lắm
người tài giỏi/[Nếu Hạng Võ nghe lời khuyên qua sông] mưu việc khôi phục, thì sự
thế chửa biết ra sao). Trần Tế Xương thi hỏng nhiều bận, trong “Bài phú hỏng
thi” cũng đã mượn cụm từ này để diễn tả tâm sự của một sĩ tử mấy lần mang lều
chỏng, khăn gói đi thi mà không đỗ : “Ngẫm đến câu “quyển thổ trùng lai”,
nói ra ngập ngọng”.
11
Sử sách ta thường ghi là “vàng lụa”, nhưng chúng tôi đã dịch đúng theo nguyên
văn ở đây là “ngọc bạch” (ngọc lụa).
12
Nguyên văn chữ Hán là “trấp”, có nghĩa là “thu, cất đi, ngưng lại, làm êm
dịu”.
13
Tân Việt Nam, trang 3.
14
Người đề xướng sách lược ngoại giao này là Phạm Thư, người nước Tần đời Chiến
Quốc ở Trung Hoa.
15
Tân Việt Nam, trang 3-4.
16
Như trên, trang 4.
17
Như trên.
18
Như trên, trang 13-14.
19
Xem Phan Bội Châu, Tự phán (TP) (Huế : Nxb Anh Minh, 1956), trang 34 ;
Phan Bội Châu niên biểu (NB) (Hà Nội : Nxb Văn Sử Địa, 1957), trang 38.
Trong bài này, những phần dịch thuật từ Tự phán đều do người viết bài này
dịch từ nguyên văn chữ Hán (không có số trang). Bởi vậy, để độc giả tiện bề tham
khảo, chúng tôi trích dẫn xuất xứ dựa theo hai bản dịch chữ quốc ngữ đã xuất
bản.
20
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử (Huế : Nxb Anh Minh,
1959), trang 17.
21
Tự phán ghi là tháng 7 âm lịch, tức khoảng tháng 8 tháng 9, năm
1904.
22
TP, trang 41 ; NB, trang 44.
23
Như trên.
24
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử, trang
17.
25
TP, trang 70 ; NB, trang 70.
26
TP, trang 71 ; NB, trang 72.
27
Huỳnh Thúc Kháng, han Tây Hồ Tiên sinh lịch sử, trang
22.
28
Hồ Tá Khanh, “Về phong trào Duy Tân tại Bình Thuận Phan Thiết, trong Thông sử
Liên Thành”. Xem Nguyễn Q. Thắng, sách đã dẫn, trang
589.
29
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử, trang
20.
30
“Thơ [sic] gởi Cụ Tây Hồ”, trong TP, phần “Phụ lục”, trang
212-213.
31
Tân Việt Nam, trang 16.
32
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử, trang
23.
33
Thường được gọi là “Hà Thành đầu độc”. Trong Đại cương Lịch sử Việt Nam
(Tập II), các tác giả cho biết sau vụ đầu độc, Hội đồng đề hình Pháp xử tử 16
người, “kết án tử hình vắng mặt 6 người và tù chung thân 4 người, còn số người
bị án có hạn thì khá nhiều”. Ngoài ra, “[n]hân vụ này, thực dân Pháp có cớ để
bắt, lưu đày một số nhân sĩ ở Đông kinh nghĩa thục” (Đinh Xuân Lâm chủ biên,
Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ, Hà Nội : Nxb Giáo Dục, 2001, trang
173-174).
34
Tân Việt Nam, trang 16-17. Trong tác phẩm này Phan nêu rõ là việc chiêu
dụ lính tập được gợi ý trong Việt Nam vong quốc sử, và việc chiêu dụ dân
binh phản đối thì có bàn trong Hải ngoại huyết thư, cả hai cuốn đều do
PBC trước tác (trang 17). Vai trò chủ mưu của PBC trong hai vụ này cũng được xác
nhận trong “Vetonamu minzoku undôshi kankei nenpyô” (Niên biểu về những sự kiện
có liên hệ đến phong trào cách mạng Việt Nam). Nagaoka Shinjirô và Kawamoto
Kunie biên dịch, Vetonamu bôkokushi hoka (Việt Nam vong quốc sử và
các tác phẩm khác của Phan Bội Châu) (Tokyo : Heibonsha, 1974), trang
303.
35 Phan nêu rõ là ở huyện Đại Lộc (Quảng Nam), quan huyện tăng số dân phu
ứng dịch đến năm lần một cách tùy tiện. Khi dân chúng kéo nhau đến sảnh đường để
chống đối, quan huyện báo cáo với công sứ là dân nổi loạn. Phong trào dân biến
bắt đầu từ đó (Tân Việt Nam, trang 26).
36 Tân Việt Nam, trang 31.
37 Có lẽ đã mô phỏng theo chủ trương “biến pháp” của phái cải
lương ở Trung Quốc do Khang Hữu Vi lãnh đạo vào cuối thập niên
1890.
38
Tân Việt Nam, trang 19-20.
39
Như trên, trang 16.
40
Như trên, trang 27.
41
Như trên, trang 18.
42
Như trên, trang 17.
43
Như trên.
44
Như trên, trang 18.
45
Như trên, trang 36.
46
Như trên.
47
Như trên, trang 36.
48
Như trên, trang 17.
49
Như trên, trang 36.
50
Như trên, trang 18.
51
Như trên, trang 4.
52
Như trên, trang 21.
53
Xem Thế Nguyên, Phan Chu Trinh, phần “Phụ lục” (Sàigòn : Tủ sách “Những
mảnh gương” Tân Việt, 1956), trang 144-145.
54
“Cảm tưởng của cụ Sào Nam đối với cụ Tây Hồ”. Tân dân, Số 3 (24.3.1949)
đặc biệt kỷ niệm Phan Tây Hồ Tiên sinh, trang 17-18.
55
TP, trang xv ; NB, trang 20.
56
“Thư gửi cho quan Sơ thẩm tòa án Binh đề ngày 27 tháng 4, 1915”, trích lại từ
Phan Thị Châu Liên, “Phan Tây Hồ Tiên sinh dật sự”, in lại trong Phan Châu
Trinh, Giai nhân kỳ ngộ (Lê Văn Siêu bình giải và chú thích), trang
75.
57
Về những hoài nghi, xem lời “Tựa” của Hoàng Xuân Hãn trong cuốn Những hoạt
động của Phan Châu Trinh tại Pháp, 1911-1925 của Thu Trang (Thành phố Hồ Chí
Minh: Nxb Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2000, trang
10) ; Thu Trang, như trên, trang 95 ; Nguyễn Văn Dương, sách đã dẫn, trang 507.
Để biết rõ những chi tiết về những “bằng chứng” do nhà cầm quyền Pháp đưa ra
cùng lời biện minh của Phan, xem Thu Trang, sách đã dẫn, trang 85-99. Để có đầy
đủ chi tiết những bức thư phản kháng của Phan, xem “Phan Tây Hồ Tiên sinh dật
sự” của bà Phan Thị Châu Liên in lại trong tập Phan Châu Trinh, Giai nhân kỳ
ngộ (Lê Văn Siêu bình giải và chú thích), trang
LXXV-LXXVII.
58
Chẳng hạn xem TP, trang 174-176 ; NB, trang171-173.
59
Huỳnh Thúc Kháng, Thi tù tùng thoại (Sàigòn: Nam Cường, 1951), trang
105.
60
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử, trang 33-34.
Chúng tôi có sửa đổi một vài chữ cho thích hợp với cách dùng hiện nay (ví dụ, cụ
Huỳnh dùng chữ “người học trò/anh học trò” để dịch chữ “sĩ” trong chữ Hán, chúng
tôi xin mạn phép sửa lại là “kẻ sĩ” nghe thuận tai hơn).
Tài liệu tham khảo :
Đinh Xuân Lâm chủ biên, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ, Đại cương
Lịch sử Việt Nam, Tập II. Hà Nội : Nxb Giáo Dục, 2001.
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Tây Hồ Tiên sinh lịch sử. Huế : Nxb Anh
Minh, 1959.
Phan Châu Trinh, Thi tù tùng thoại. Sàigòn : Nam Cường,
1951.
Nagaoka Shinjirô và Kawamoto Kunie biên dịch, Vetonamu bôkokushi hoka
(Việt Nam vong quốc sử và các tác phẩm khác của Phan Bội Châu). Tokyo
: Heibonsha, 1974.
Nguyễn Q. Thắng, Phan Châu Trinh — Cuộc đời và tác phẩm. Thành
phố Hồ Chí Minh : Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987 ; Nxb Văn Học, 2001, tái bản
và có bổ sung).
Nguyễn Văn Dương biên soạn, Tuyển tập Phan Châu Trinh. Đà Nẵng :
Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1995.
Phan
Bội Châu, “Cảm tưởng của cụ Sào Nam đối với cụ Tây Hồ”. Tân dân, Số 3
(24.3.1949) đặc biệt kỷ niệm Phan Tây Hồ Tiên sinh.
Phan
Châu Trinh, Phan Bội Châu niên biểu (NB). Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang
Phiệt dịch. Hà Nội : Nxb Văn Sử Địa, 1957.
Phan
Châu Trinh, Tự phán (TP). Huế : Nxb Anh Minh, 1956.
Phan
Châu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ. Lê Văn Siêu bình giải và chú thích. Sàigòn
: Nxb Hướng Dương, 1958.
Phan
Châu Trinh, Tân Việt Nam. Di thảo bằng chữ Hán. Lưu trữ tại nhà thờ cụ
Phan ở Đà Nẵng. Trong bài này, những phần trích dẫn từ Tân Việt Nam là do
chúng tôi dịch từ nguyên văn chữ Hán, số trang trích dẫn là số trang ghi ở đầu
mỗi trang của nguyên bản di thảo.
Thế
Nguyên, Phan Chu Trinh. Sàigòn : Tủ sách “Những mảnh gương” Tân Việt,
1956.
Thu
Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, 1911-1925. Thành phố
Hồ Chí Minh : Nxb Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học,
2000.
Sửa
lại tháng 11, 2006
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/100-phong-trao-duy-tan
0 nhận xét:
Đăng nhận xét