Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đang căng thẳng vì vụ giàn khoan Haiyang Shiyou 981 |
Phạm
Chí
Dũng
Không
phải
ngẫu
nhiên
và
cũng
chưa
có
gì
chứng
tỏ
thiện
ý
khi An Ninh Thủ
Đô vừa
có
bài
“Các
nghị
sĩ
hối
thúc
chính
quyền
Mỹ
cứng
rắn
trước
hành
động
nguy hiểm
của
Trung Quốc”.
Trang
báo thường
chiếm
một
vị
trí
xứng
đáng
trong danh mục
bán
chỉ
định
của
báo
đảng
và
luôn
công
kích
phong trào
dân
chủ
nhân
quyền
trong nước
cùng
“sự
can thiệp
thô
bạo
và
trắng
trợn
của
Mỹ
vào
Việt
Nam”
gần
đây
đã
bộc
lộ
nỗi
âu
lo lẫn
sốt
ruột
không
thể
che giấu:
hơn
bao giờ
hết,
giới
lãnh
đạo
Việt
Nam lại
cần
đến
“bà
con xa”
hơn
là
“láng
giềng
gần”.
Lo
âu và rối
loạn
Công
tâm mà xét, phép thử
Bắc
Kinh mang tên
giàn
khoan Haiyang Shiyou 981 ở
biển
Đông
chỉ
trong hai tuần
lễ
đã
mang lại
một
hiệu
nghiệm
chưa
từng
có: toàn bộ
đời
sống
chính
trị
và
cả
tâm
thế
xã
hội
Việt
Nam bị
rối
loạn.
“Kỳ
án” biểu
tình
bạo
loạn
ở
Bình
Dương
có
lẽ
đã
làm
cho phần
lớn
giới
chính
khách
Hà
Nội,
vốn
còn
so đo
tính
toán
trong trò
chơi
đu
dây
giữa
Bắc
Kinh và
Washington, phải
giật
mình.
Lần
đầu
tiên
từ
sau cuộc
chiến
tranh biên
giới
phía
Bắc
1979 đến
nay, những
người
làm
công
tác
tình
báo
của
Việt
Nam chắc
hẳn
phải
quá
nặng
lòng
với
câu
hỏi:
làm
thế
nào
và
sẽ
ra sao khi những
dấu
hiệu
của
lực
lượng
“thân
Trung”
đã
và
sẽ
nổi
lên
quyết
liệt
đến
mức
sống
mái
trên
mảnh
đất
thường
được
xem là
“ao
làng”
của
Bắc
Kinh?
Phép
thử
Bắc
Kinh cũng
đã
chứng
tỏ
được
xung lực
ứng
nghiệm
của
nó:
ngay khi nội
trị
Việt
Nam rối
loạn,
lời
cầu
cứu
của
Hà
Nội
đã
không
còn
được
cộng
đồng
quốc
tế
đáp
từ
như
trước
đây.
Nếu
quả
đúng
với
thâm
ý
của
Trung Nam Hải
và
đòn
nhúng
tay hiểm
ác
của
họ,
cuộc
bạo
loạn
đốt
phá
lan rộng
dữ
dội
ở
Bình
Dương
và
hàng
loạt
cái
chết
của
công
nhân
Trung Quốc
ở
Hà
Tĩnh
đã
làm
cho hình
ảnh
một
Việt
Nam “ổn
định
chính
trị
và
xã
hội”
trở
nên phai tàn rất
nhanh trong cảm
nhận
của
thế
giới.
Hệ
quả
kéo
theo không
tránh
khỏi
là
làn
sóng
đầu
tư
nước
ngoài
vào
quốc
gia có
tỷ
lệ
thất
nghiệp
thực
tế
có
thể
lên
đến
20% này
đang
có
nguy cơ
bị
chựng
lại.
Cùng
lúc, làn sóng thoái vốn
của
nhiều
doanh nghiệp
Trung Quốc,
Đài
Loan và
vài
nước
khác
lại
có
chiều
hướng
xung kích.
Rồi
như
một
hiệu
lệnh
đồng
loạt,
nhiều
dấu
hiệu
cho thấy
quân
đội
Trung Quốc
đang
thầm
lặng
di chuyển
áp
sát
biên
giới
phía
Bắc.
Vài
ngày
gần
đây
đã
thổi
nhẹ
loạt
đồn
đoán
về
một
cuộc
chiến
tranh có
thể
nổ
ra vào
bất
cứ
thời
điểm
nào…
Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường |
Cầu
cứu
Phản
ứng
của
phương
Tây
ra sao? Vào
đúng
thời
điểm
kỷ
niệm
bốn
chục
năm
quan hệ
Việt
- Pháp,
giới
ngoại
giao Paris vẫn
giữ
đúng
chuẩn
mực
văn
hóa,
và
vấn
đề
mà
họ
có
vẻ
quan tâm
nhất
cũng
chính
là
chủ
đề
“xây
dựng
văn
hóa”
mà
Ban chấp
hành
trung ương
đảng
cộng
sản
Việt
Nam miên
man bàn
thảo
trong hội
nghị
trung ương
9, cho dù
ngay cạnh
hội
nghị
này
là
mối
hiểm
họa
bất
cần
văn
minh của
người
anh em “núi
liền
núi,
sông
liền
sông”.
Trong
khi đó, với
tính
khí
lạnh
lẽo
sương
mù
vốn
có,
người
Anh càng khó mặn
mà
với
một
khu vực
mà
họ
chẳng
có
ích
lợi
gì
ngoài
cú
vồ
hụt
Nam Kỳ
vào
năm
1946.
Chưa
có
bất
cứ
tín
hiệu
cứu
sinh nào
từ
Tây
Âu,
Hà
Nội
chỉ
còn
trông
chờ
vào
chính
sách
“xoay
trục”
sang châu
Á
- Thái
Bình
Dương
của
Hoa Kỳ.
Thế
nhưng
điều
lạ
lùng là sau thành công kéo tỷ
lệ
thất
nghiệp
từ
9,9% năm
2009 xuống
chỉ
còn
6,3% vào
đầu
năm
nay, chính
quyền
Obama lại
dường
như
chọn
hướng
tiếp
tục
phát
huy thắng
lợi
này,
cũng
là
để
tạo
dựng
uy tín
cho ứng
cử
viên
đảng
Dân
chủ
trong cuộc
chạy
đua
vào
Nhà Trắng
vài
năm
tới,
thay vì
dành
mối
chú
tâm
cho một
địa
chỉ
vẫn
bị
đánh
giá
“độ
tin cậy
giữa
hai quốc
gia là
rất
thấp”.
Thực
tế,
chỉ
vài
tiếng
nói
của
vài
nghị
sĩ
Mỹ
không
đủ
làm
cho gió
lặng
trên
biển
Đông
bạc
sóng
bởi
vòi
rồng
Trung quốc.
Thậm
chí
đến
lúc này, một
nghị
sĩ
Mỹ
còn
nói
thẳng:
“Việt
Nam không
hẳn
là
bạn
của
Hoa Kỳ”.
Có
lẽ
nhiều
năm
sau, câu
nói
đó
sẽ
đi
vào
lịch
sử,
nếu
so đo
với
chính
sách
“Việt
Nam muốn
làm
bạn
với
tất
cả
các
nước”
và gần
10 “đối
tác
chiến
lược
toàn
diện”
trên
danh mục
của
Hà
Nội
tới
nay, trong đó
Bắc
Kinh luôn
tiến
chiếm
vị
trí
số
1.
Tình
thế
nan nguy chưa
từng
có
như
thế
chắc
chắn
đã
khiến
cho đảng
cầm
quyền,
chính
phủ
và
quốc
hội
Việt
Nam không
còn
thể
thờ
ơ
với
vận
mệnh
dân
tộc
và
sinh mạng
chính
trị
của
họ.
Như
một
hiệu
lệnh
đồng
loạt,
trong khi Quốc
hội
khai mạc
kỳ
họp
giữa
năm
bằng
một
tuyên
bố
có
từ
“Trung
Quốc”
và
do đó
khác
về
bản
chất
với
cả
hai bài
diễn
văn
khơi
mào
và
kết
thúc
hội
nghị
trương
ương
9 của
Tổng
bí
thư
Nguyễn
Phú
Trọng
ít
ngày
trước
đó,
Phái
đoàn
thường
trực
Việt
Nam bên
cạnh
Liên
hiệp
quốc
cũng
bắt
đầu
ban bố
một
tuyên
cáo
về
“Trung
Quốc
đe
dọa
nghiêm
trọng
hòa
bình”.
Nhưng
đáng
kể
nhất
là
Thủ
tướng
Nguyễn
Tấn
Dũng,
chính
khách
cao cấp
tỏ
ra có tiếng
nói
“thoát
Trung”
mạnh
mẽ
nhất
trong hàng
ngũ
lãnh
đạo
đảng
cho đến
giờ.
Nhân
chuyến
dự
Diễn
đàn
kinh tế
thế
giới
Đông
Á
ở
Philippines, Thủ
tướng
Dũng
đã
có
vẻ
khiến
Bắc
Kinh phải
đôi
chút
lo ngại
về
một
liên
minh quân
sự
giữa
hai quốc
gia - nạn
nhân của
chính
sách
bành
trướng
biển
khơi
và
“vùng
chủ
quyền
lãnh
thổ
di động”.
Dường
như
là
lần
đầu
tiên,
ông
Dũng
tuyên
bố
công
khai ở
nước
ngoài
về
“mối
đe
dọa
của
Trung Quốc”.
Nhưng
có
một
chi tiết
rất
đáng
chú
ý:
nước
ngoài
đó lại
là
Philippines - quốc
gia vừa
đạt
được
hiệp
ước
tương
trợ
quốc
phòng
với
Mỹ
trong chuyến
công
du Manila của ông
Barak Obama cuối
tháng
4/2014.
Điều
an ủi
có
lẽ
là
duy nhất
cho sự
thất
vọng
của
Hà
Nội
là
dù
sao cú
ra tay đầy
tính
toán
của
Trung Quốc
tại
Biển
Đông
cũng
bắt
buộc
những
người
bảo
thủ
ở
Việt
Nam phải
nhìn
lại
một
quy luật
kinh điển:
trong hai cái
xấu,
hãy
lựa
chọn
cái
nào
đỡ
xấu
hơn.
EU cho rằng Việt Nam chưa thật sự tiến bộ về nhân quyền |
'Độ
tin cậy
rất
thấp'
Vốn
thường
bị
lên
án
là
‘sen
đầm
quốc
tế”
cùng
chính
sách
“diễn
biến
hòa
bình”,
nhưng
ít
nhất
người
Mỹ
đã
chưa
từng
biểu
lộ
ý
chí
xâm lăng bằng
mọi
giá
như
Trung Quốc
tại
ít
nhất
khu vực
biển
Đông.
Thậm
chí
ngược
lại,
Mỹ
và
phương
Tây
lại
đang
có
trong tay cái
bánh
mà
Việt
Nam quá
thèm
muốn
để
xử
lý
khủng
hoảng
kinh tế
- xã
hội:
Hiệp
định
đối
tác
kinh tế
xuyên
Thái
Bình
Dương
(TPP) - điều
mà
Trung Quốc
không
hề
có;
hoặc
chỉ
là
cán
cân
xuất
siêu
của
Đại
Hán
vào
Việt
Nam tăng
chẵn
100 lần
trong hơn
10 năm
qua.
Tâm
lý người
Việt
“ngả
vào
vòng
tay phương
Tây”
cũng
bởi
thế
đang
có
chiều
hướng
đột
biến
so với
mối
nghi kỵ
đậm
chất
“thù
địch”
như
trước
đây.
Rất
nhiều
khả
năng
là
Thủ
tướng
Nguyễn
Tấn
Dũng
và
một
phần
lớn
còn
lại,
nếu
không
muốn
nói
là
tất
cả,
giới
lãnh
đạo
Hà
Nội
đang
rất
mong đợi
giữa
họ
với
Washington sẽ
thiết
lập
được
một
bản
hiệp
ước
quân
sự
nào
đó,
nhằm
ngay lập
tức
tạo
thành “lá chắn
biển
Đông”
trước
cơn
thủy
triều
đỏ
rực
thèm
khát
của
Bắc
Kinh.
Philippines
lại
chính
là
một
bài
học
quá
cận
kề
đối
với
Việt
Nam. Chỉ
ba năm
trước,
vùng
lãnh
hải
của
quốc
gia nhỏ
bé
này
còn
liên
tục
bị
Trung Quốc
đe
dọa
xâm
lấn
và
chiếm
đảo.
Thế
nhưng
cùng
với
mối
quan hệ
khắng
khít
với
Washington và
hạm
đội
7, lần
đầu
tiên
người
Phi đã
dám
kiện
gã
khổng
lồ
Trung Quốc
ra tòa
án
quốc
tế.
Cũng
cho đến
nay, hải
quân
Trung Quốc
hoàn
toàn
chưa
dám
động
binh - hành
động
chẳng
tương
xứng
chút
nào
với
tuyên bố
“nhổ
nước
bọt”
của
họ
trước
đây.
Bài
học
quốc
tế
đã
sẵn
có
và
kinh nghiệm
cũng
không
thiếu.
Nhưng
câu
hỏi
hóc
búa
đối
với
Hà
Nội
là
làm
thế
nào
họ
chinh phục
được
“bà
con xa”
vào
lúc
này,
khi “độ
tin cậy
giữa
hai quốc
gia là
rất
thấp”?
Không
chỉ
“thấp”
về
mối
quan hệ
“đối
tác
toàn
diện”
mà
chưa
hề
mang hơi
hướng
“chiến
lược”
nào,
những
gì
mà
một
chính
quyền
thường
hứa
hẹn
“luôn
quan tâm
và
bảo
đảm
các
quyền
con người”
lại
chẳng
thể
cảm
hóa
được
Quốc
hội
và
do đó
là
chính
phủ
Mỹ.
Ngược
hẳn
với
tuyên
bố
“Việt
Nam đã
thực
hiện
hơn
80% khuyến
nghị
về
nhân
quyền
của
Hội
đồng
nhân
quyền
Liên
hiệp
quốc”
của
một
trong những
nhân
vật
được
coi là
ứng
viên
cho chức
vụ
thủ
tướng
Việt
Nam trong tương
lai không
xa - Phó
thủ
tướng
kiêm
bộ
trưởng
ngoại
giao Phạm
Bình
Minh, giới
chính
khách
Liên
minh châu
Âu
lại
mát
mẻ
rằng
có
đến
85% khuyến
nghị
của
các
quốc
gia đã
chưa
hề
được
Hà
Nội
đụng
chạm
đến.
Lời
trần
tình
chua cay này
được
nêu
ra trong một
cuộc
hội
thảo
về
Kiểm
điểm
định
kỳ
phổ
quát
về
nhân
quyền
Việt
Nam diễn
ra mới
đây
tại
Hà
Nội.
Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường |
Bà
con xa?
Minh
chứng
hùng
hồn
và
gần
gũi
nhất
cho chủ
đề
nhân
quyền
Việt
Nam lại
vừa
xảy
đến
vào
ngày
Chủ
nhật
18/5/2014, khi cuộc
biểu
tình
ôn
hòa
phản
đối
Trung Quốc
can thiệp
vào
biển
Đông
của
người
dân
Hà
Nội,
Sài
Gòn
và
Vinh đã
bị
chính
quyền
các
nơi
đàn
áp
thô
bạo.
Các
hãng tin quốc
tế
lập
tức
loan tin “Bắt
bớ
diễn
ra khắp
nơi,
những
người
biểu
thị
lòng
yêu
nước
bị
đánh
đập
dã
man…”
Rất
tương
đồng
với
ý
nghĩa
của
gần
hai chục
cuộc
đàn
áp
biểu
tình
ôn
hòa
chống
Trung Quốc
từ
giữa
năm
2011 đến
nay, cuộc
đàn
áp
gần
nhất
ở
Việt
Nam đã
bộc
lộ
một
sai lầm
chính
trị
đủ
lớn
của
chính
quyền:
không
còn
phân
biệt
nổi
đâu
là
biểu
tình
quá khích và đâu là biểu
tình
ôn
hòa.
Một
sai lầm
bị
đại
đa
số
nhân
dân
cho là
vong quốc
và
sẽ
góp
thêm
lòng
nhiệt
tình
vào
tình
thế
mất
nước.
Chính
sai lầm
mang tính
hệ
thống
trên
đang
và
sẽ
dồn
đẩy
giới
cầm
quyền
Việt
Nam vào
ngõ
cụt:
Làm
thế
nào
để
nếu
chiến
tranh Trung - Việt
nổ
ra, mà
tương
lai này
trở
nên
khá
dễ
đoán
trong 2-3 năm
tới,
chính
quyền
Việt
Nam có
thể
ít
nhất
huy động
được
dân
chúng
xuống
đường
biểu
thị
“chính
nghĩa”,
trước
khi nói
đến
một
cuộc
tổng
động
viên
nào
đó,
mà
không
bị
người
dân quay lưng
bởi
quá
khứ
trấn
áp
biểu
tình
không
khoan nhượng?
Làm
thế
nào
để
Hà
Nội
vớt
vát
chút
niềm
tin quốc
tế
trong bối
cảnh
họa
xâm
lăng
đang
cận
kề
và
mối
họa
mất
nước
hoàn
toàn
không
xa xôi?
Và
thực
tế
hơn
rất
nhiều
lần
là
làm
thế
nào
để
Việt
Nam có được
“lá
chắn
biển
Đông”,
nếu
chính
quyền
bảo
thủ
của
quốc
gia này
vẫn
không
thể
chấp
nhận
những
khái
niệm
cơ
bản
nhất
về
giá
trị
nhân
quyền,
như
một
bài
học
rất
giá
trị
khác
- Miến
Điện
- đã
tích
lũy
từ
ba năm
qua và
thật
ứng
với
câu
tục
ngữ
Việt
Nam “Bà
con xa hơn
láng
giềng
gần”?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét