Ba vẻ đẹp qua nét vẽ của họa sĩ Chóe-Nguyễn Hải Chí (1943-2003), “Một năm hai thước vải thô.” (Hình: do Viên Linh cung cấp) |
Viên Linh
Yêu
người trong tranh trong sách không phải là chuyện lạ, học sinh Việt Nam
bậc trung học đã được biết về tích truyện lãng mạn đa tình Bích Câu Kỳ
Ngộ, qua bản quốc ngữ của Thi Nham Ðinh Gia Thuyết, dịch và chú giải từ
nguyên tác chữ Hán của Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748) trong Truyền Kỳ Tân
Phả.
Nguyên bản của nữ
sĩ họ Ðoàn có 6 truyện, “cuộc gặp mặt lạ lùng ở suối biếc” (Bích Câu Kỳ
Ngộ) là một trong 6 truyện ấy. Bích Câu có thật, thuộc làng Yên Trạch
huyện Thọ Xương ở Thăng Long, nơi hiện nay vẫn còn ngôi đền ở gần Văn
Miếu Hà Nội. Trong truyện ca dài 648 câu, kể ngọn ngành thi sĩ Tú Uyên
thời Lê - [Nhà Tiền Lê (1428-1527), nhà Hậu Lê (1533-1788), khoảng 6 năm
giữa 1527-1532 không kể vì bị nhà Mạc xen vào.]- một hôm đi thăm Chùa
Bà ở phố Sinh Từ, nhác thấy một thiếu nữ đẹp tuyệt trần đi ngang qua
phía trước cổng tam quan, chàng chạy theo, lẽo đẽo phía sau ướm hỏi này
kia mãi cho tới gần Cửa Nam.
Thấy người trước cổng tam quan
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ
Lạ lùng con mắt người thơ
Hoa còn phong nhụy trăng vừa tròn gương...
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ
Lạ lùng con mắt người thơ
Hoa còn phong nhụy trăng vừa tròn gương...
Gần xem vẻ mặt thêm tươi
Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều
Làn thu lóng lánh đưa theo
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình...
Người còn cợt gió đợi mâyMùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều
Làn thu lóng lánh đưa theo
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình...
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh
Ngóng theo đến Quảng văn đình [Cửa Nam]
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua...
(Bích Câu Kỳ Ngộ, bản dịch Ðinh Gia Trinh)
Nàng biến mất, trông lên chỉ còn thấy bóng dáng thấp thoáng trên cành
cây. Thế là về nhà ốm tương tư, có phần sắp chết. Bạn chàng tội nghiệp,
mách hay là tới đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm [nay vẫn còn] xin một quẻ
bói xem sao. Thần ngựa trắng nơi đây rất thiêng. Quẻ nói: sáng mai ra
đợi ở cây cầu gỗ ở phố Hàng Ðường thế nào cũng gặp. Gặp thật, nhưng
không phải gặp người, mà chỉ gặp một kẻ bán tranh tố nữ, diện mạo người
trong tranh nhìn đúng là tiên nữ đã gặp mấy ngày trước. Tú Uyên mang
tranh về treo lên tường, ra cũng nhìn, vào cũng ngắm, ngày hai bữa khi
ăn thì để thêm bát đũa mời người trong tranh ra ăn với mình. Nói mời là
nhẹ, thực ra là cầu khẩn:
Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là...
Có khi gẩy khúc đàn tranh
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân...
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là...
Có khi gẩy khúc đàn tranh
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân...
Có khi ngồi suốt năm canh
Mõ quyên điểm nguyệt chuông kình nện sương...
Mõ quyên điểm nguyệt chuông kình nện sương...
Có khi chuốc chén rượu đào
Tiệc mời chưa cạn ngọc giao đã đầy...
(Bích Câu Kỳ Ngộ, bản dịch Ðinh Gia Trinh)
Tiệc mời chưa cạn ngọc giao đã đầy...
(Bích Câu Kỳ Ngộ, bản dịch Ðinh Gia Trinh)
Và nàng đã hiện ra. Ðó là những nét chính của Bích Câu Kỳ Ngộ, nàng
thơ của thi sĩ Tú Uyên. Năm 1957 nhà văn Vũ Khắc Khoan đã do cuốn cổ văn
này mà viết thành truyện ngắn nổi tiếng Người Ðẹp Trong Tranh. Theo
thời gian, một số thi sĩ lớp sau cũng yêu người trong tranh, yêu người
trong sách lắm. Thi sĩ uống rượu ngon, ăn bánh thật, nhưng yêu người vẽ,
cách này cách khác. Nàng thơ của họ do thiên hạ vẽ ra.
Cùng Người Trong Sách Tương Hội
Bích Khê
Bích Khê
Tên thật Lê Quang Lương (24.3.1916 - 17.1.1946) người Sơn Tịnh, Quảng
Ngãi, học trung học ở Huế, Hà Nội, bỏ dở dang, về sống và dậy học một
thời gian ở Phan Thiết. Có thơ đăng các báo Tiếng Dân, Tiểu Thuyết thứ
năm. Tập thơ đầu tay xuất bản năm 23 tuổi: Tinh Huyết (1939). Yểu mệnh
vì bệnh lao. Nguồn cảm hứng của Bích Khê là nỗi đam mê sống trong khắc
khoải vội vàng; xúc cảm được thể hiện bằng những danh từ, trạng từ, và
động từ như “vú non non” (Mộng Cầm Ca), “ấp bóng nường” (Tân Hôn), “Hai
vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi!” (Tranh Lõa Thể), “Cắn, Nàng! Hở nàng!
Hãy cắn vào hồn ta.” (Bàn Chân)...
Trong sách có người ngọc
Khép cửa mặc hoa xuân
Ðốt lò vàng. Mở quyển
Tương hội với tân nhân.
Khép cửa mặc hoa xuân
Ðốt lò vàng. Mở quyển
Tương hội với tân nhân.
Ngu Cơ theo Bao Tự!
Phi Yến lẫn Ngọc Chân!
Người đẹp ở trong quyển
Niên hoa mãi có phần.
Phi Yến lẫn Ngọc Chân!
Người đẹp ở trong quyển
Niên hoa mãi có phần.
Ngoài trời là mộng cả;
Hương lại thêm vài phân.
Người như trang Ðạo Uẩn
Ta như khách Tô Tần!
Hương lại thêm vài phân.
Người như trang Ðạo Uẩn
Ta như khách Tô Tần!
Tương kỳ cùng tương ứng,
Tương cảm lại tương thân.
Cùng nhau ta hoan lạc,
Hư thực chẳng phân vân.
Tương cảm lại tương thân.
Cùng nhau ta hoan lạc,
Hư thực chẳng phân vân.
Màu Thời Gian
Ðoàn Phú Tứ
Nhà thơ Ðoàn Phú Tứ (10.9.1910 - 20.9.1989) không có tranh Tần phi,
song yêu nhân vật Tần phi qua lịch sử tiểu thuyết. Quê Tiên Du, Bắc
Ninh, đang học Triết và Luật ở Ðại học Hà Nội thì bỏ dở đi làm kịch, làm
báo; chủ nhiệm báo Tinh Hoa (1937), thành viên Nhóm Xuân Thu Nhã Tập
(cùng với Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh,) trong đó bài Màu Thời Gian
là một bài thơ tinh khôi, tân kỳ, quí phái. Người nữ là cung phi đã già,
được vua gọi, không muốn vua thấy mặt mình nữa, nên cắt tóc gửi cho vua
với lời tạ từ, đành “nép mày hoa thiếp phụ chàng.” Cùng với Nguyễn Xuân
Sanh, Phạm Văn Hạnh, cái đẹp mà nhóm này ca ngợi đều rất cao kỳ sang cả
(đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà / áng tóc não nùng...)
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa - Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn vương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát(Ngày Nay, Hà Nội, 1940)
Tình một thủa còn vương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát(Ngày Nay, Hà Nội, 1940)
Trong thi phẩm xuất bản cách đây 32 năm, người viết bài này có ba
đoạn thơ về hồ ly tinh trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh, cũng xin
kể ra cho phải phép.
Ðợi Mãi, Giọt Sương, Mai Thôn
Viên Linh
Ðợi mãi nàng không thấy hiện lên
Ở đâu về gấp hỡi hồ tiên
Muông nương thảo dã cầm tinh nữ
Cửa ngõ trăng mờ mộng thiếu em.
Ở đâu về gấp hỡi hồ tiên
Muông nương thảo dã cầm tinh nữ
Cửa ngõ trăng mờ mộng thiếu em.
Nhà học đêm mưa mộng thấy nàng
Thân ngà lồng lộng mở từng trang
Cái yêu ẩn mật trong lòng ấm
Một giọt sương chìm giữa chấm son.
Thân ngà lồng lộng mở từng trang
Cái yêu ẩn mật trong lòng ấm
Một giọt sương chìm giữa chấm son.
Người đến Mai thôn trọ một đêm
Ðược cùng Mai nữ ngủ chung mền
Sáng ra chỉ thấy nằm trên cỏ
Và một cành mai trắng ở bên.(Ðoạn 66, 67, 68 trang 34-35, Thủy Mộ Quan, 1982)
Viên Linh
Ðược cùng Mai nữ ngủ chung mền
Sáng ra chỉ thấy nằm trên cỏ
Và một cành mai trắng ở bên.(Ðoạn 66, 67, 68 trang 34-35, Thủy Mộ Quan, 1982)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét