Biển đảo Việt
Nam
Qua cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" do UBND huyện Hoàng Sa
(Đà Nẵng) và NXB Thông tin - Truyền thông xuất bản tháng 1/2012 và cuốn "Sự thật
về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (NXB Sự thật, 1979), người ta
càng hiểu rõ việc Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa là kết quả của một sự mua bán
bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam!
Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung
Quốc
Theo sách "Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979), Đông Nam Á
là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu
một số lãnh đạo cực đoan của nước CHND Trung Hoa ước mơ thôn tính. Ý đồ bành
trướng của Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong
cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963: "Tôi
sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á"!
Cũng trong dịp này, Mao Trạch
Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc về diện tích thì
tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung
Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở. Đối với nước Lào đất rộng, người thưa,
Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để
ở...
Mao Trạch Đông còn khẳng định
trong cuộc họp của Bộ Chính trị BCH TƯ ĐCS Trung Quốc, tháng 8/1965:"Chúng
ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến
Điện, Malaysia và Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều
khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy... Sau khi giành
được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh cua chúng ta ở vùng
này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô - Đông Âu, gió
đông sẽ thổi bạt gió tây".
So với các khu vực khác trên
thế giới, Đông Nam Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất,
có nhiều phương tiện và khả năng nhất để thực hiện chính sách bành trướng và bá
quyền nước lớn của mình. Cho nên hàng chục năm qua, những người lãnh đạo CHND
Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực
này, tạo điều kiện cho chiến lược toàn cầu của họ.
"Họ
xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, đe dọa
bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức
ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của
họ. Họ xâm phạm lãnh thổ và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai
hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn
tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo
nào, như họ đã dựng lên tập đoàn Pol pot - Ieng Sary thực hiện chính sách diệt
chủng ở Campuchia... để phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ."
(Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua -
1979).
Cũng theo sách này, Việt Nam
có một vị trí chiến lược ở Đông Nam Á. Trong lịch sử, phong kiến Trung Quốc đã
nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm
lược các nước khác ở Đông Nam Á. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc,
những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông
Dương, mở đường đi xuống Đông Nam Á.
Trong cuộc gặp gỡ giữa đại
biểu 4 ĐCS Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia và Lào tại Quảng Đông tháng 9/1963,
Thủ tướng Chu Ân Lai nói: "Nước
chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt
Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Á"!
Sách "Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979) nêu rõ: "Để
làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước Đông
Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt
Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam Á đối lập với Việt Nam, vu
khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế
giới".
Từ vịnh Bắc bộ đến quần đảo Hoàng
Sa
Đề cập đến vấn đề Hoàng Sa và
Trường Sa, sách này cũng nhấn mạnh: "Những
người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là "chủ quyền" của họ đối với các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm
quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, để từng bước kiểm soát biển
Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á, đồng thời khai thác tài nguyên
phong phú ở vùng biển Đông".
Đặc biệt, sách này cho biết
thêm, từ năm 1973, những người cầm quyền Trung Quốc tăng cường hành động khiêu
khích và lấn chiếm đất đai ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam nhằm làm yếu
những cố gắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn
miền Nam. Đồng thời họ ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài nguyên thiên
nhiên của mình để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế.
Ngày 26/12/1973, Việt Nam đề
nghị mở cuộc đàm phán để xác định chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ nhằm sử dụng phần biển thuộc Việt Nam phục vụ công
cuộc xây dựng đất nước. Ngày 18/1/1974, phía Trung Quốc trả lời chấp thuận đề
nghị nhưng họ đòi không được tiến hành việc thăm dò trong một khu vực rộng
20.000km2
trong vịnh Bắc bộ do họ tự ý định ra. Họ còn đòi "không
để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc bộ" vì việc đó "không
có lợi cho sự phát triển kinh tế chung của hai nước và an ninh quân sự của hai
nước".
"Đó
chỉ là một lý do để che đậy ý đồ đen tối của họ. Cũng vì vậy mà cuộc đàm phán về
đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ từ tháng 8 đến
tháng 11/1974 đã không đi đến kết quả tích cực nào. Cũng với thái độ trịch
thượng nước lớn như vậy, họ làm bế tắc cuộc đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ
và trong vịnh Bắc bộ bắt đầu từ tháng 10/1977, nhằm mục đích tiếp tục xâm phạm
biên giới, lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam" (sách đã dẫn).
Đặc biệt, tài liệu này của Bộ
Ngoại giao Việt Nam cho hay, chỉ một ngày sau khi nhận đàm phán với phía Việt
Nam về vấn đề vịnh Bắc bộ, vào ngày 19/1/1974 phía Trung Quốc đã sử dụng lực
lượng hải quân và không quân tiến đánh quân lực Việt Nam Cộng hoà (VNCH) và
chiếm quần đảo Hoàng Sa từ lâu vốn là bộ phận lãnh thổ Việt Nam.
"Họ
nói là để "tự vệ" nhưng thực chất đó là một hành động xâm lược, một sự xâm chiếm
lãnh thổ Việt Nam để khống chế Việt Nam từ mặt biển và từng bước thực hiện mưu
đồ độc chiếm biển Đông. Hành động xâm lược của họ có tính toán từ trước và được
sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ G. Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu
cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn, và hạm đội Mỹ ở Thái
Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa" (sách đã
dẫn).
Vì sao chính quyền Nixon im lặng trước biến cố
Hoàng Sa?
Về chi tiết vừa nêu trên, TS
Trần Công Trục trong bài "Quá
trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa"
đăng trong cuốn "Kỷ
yếu Hoàng Sa" (NXB Thông tin và Truyền thông, tháng 1/2012) cũng cho biết
thêm:
"Ngày 20/1/1974, lúc 16g, Ngoại trưởng VNCH Vương
Văn Bắc đã thông báo tình hình quần đảo Hoàng sa cho Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại
Sài Gòn, và yêu cầu Hoa Kỳ cho biết sẽ dành cho VNCH sự ủng hộ nào về vật chất,
chính trị với tư cách là nước thân hữu và đồng minh, cũng như với tư cách là
quốc gia đã ký kết và bảo đảm cho Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, nhưng không
nhận được trả lời của Hoa Kỳ.
Ngày 21/1/1974, Chính quyền VNCH đã gửi Công hàm
cho các thành viên ký kết Định ước Paris đề nghị các thành viên lên án và đòi
nhà cầm quyền Trung Quốc không được xâm phạm lãnh thổ Việt Nam theo đúng nội
dung Điều 1 và Điều 4 của Định ước này.
Ngày
22/1/1974, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ
Richard Nixon về biến cố Hoàng Sa và ngày 28/1/1974 thông báo tới tất cả các
quốc gia có quan hệ ngoại giao với VNCH về hành động hiếu chiến của Trung Quốc
trong cuộc hành quân xâm lược quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt
Nam".
Vì sao là một nước "thân
hữu và đồng minh" với VNCH nhưng Mỹ lại im lặng trước biến cố Hoàng Sa?
Sách "Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979) nêu rõ: "Về
việc Tổng thống Nixon đi thăm Trung Quốc năm 1972, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã
nói với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6/1973 như sau: "Thành thực mà nói,
nhân dân Trung Quốc, ĐCS Trung Quốc và nhân dân thế giới phải cảm ơn nhân dân
Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc
Kinh".
Kỳ thực, theo tài liệu của Bộ
Ngoại giao Việt Nam, trong chuyến thăm vừa nêu, Trung Quốc đã thoả thuận với
chính quyền Nixon một cuộc mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam, thể
hiện trong Thông cáo Thượng Hải. Theo đó, Trung Quốc mưu toan dùng "con
bài Việt Nam" để ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan
hệ Trung - Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Còn chính quyền Nixon có thể cứu
vãn và khôi phục địa vị trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của
cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến
tranh" nhằm rút được quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Do vậy, chính quyền Nixon đã
không có bất cứ động thái nào đáp ứng lời cầu cứu của chính quyền VHCN khi quần
đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược. Và đây cũng chính là bài học lịch sử về
việc chúng ta phải không ngừng nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tận dụng sự
ủng hộ của quốc tế nhưng phải trên cơ sở phát huy tự lực, tự cường chứ không thể
chỉ trông chờ, dựa dẫm vào những lực lượng từ bên ngoài để bảo vệ chính nghĩa,
bảo vệ chủ quyền quốc gia của chúng ta!
Ngang ngược gây ra tình trạng "việc đã
rồi"!
"Trong cuộc hội đàm với những người lãnh đạo Việt
Nam năm 1975, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận rằng hai bên
đều nói các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của mình, cho nên cần gặp gỡ để
bàn bạc giải quyết. Điều đó càng chứng tỏ hành động của phía Trung Quốc xâm
chiếm quần đảo Hoàng Sa là ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, gây ra một
tình trạng việc đã rồi"
(Sách "Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" - NXB Sự thật,
1979)
|
Theo
INFONET
0 nhận xét:
Đăng nhận xét