Đảng Cộng sản Việt Nam có
thật lòng muốn hòa giải và hòa hợp dân tộc không hay chỉ nói một đàng làm một nẻo
nên chia rẽ và hận thù đã chồng chất sau 40 năm kết thúc chiến tranh?
Câu hỏi này không mới mà
đã được lập đi lập lại vào mỗi dịp 30 tháng 4 về. Tại sao?
Trước hết, hãy nghe Nhà nghiên cứu 95 tuổi Nguyễn Đình Đầu, nguyên Phụ tá Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền trong chính phủ 2 ngày của Tổng thống sau cùng Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh chia sẻ: “Tôi thấy về vấn đề đoàn kết dân tộc bằng văn hóa chúng ta mới có những chỉ thị. Còn nền văn hóa của Việt Nam mang bản sắc như thế nào thì chưa làm sáng rõ ra được. Vì thế, chúng ta cần phải giáo dục, xây dựng không chỉ con người khoa học, con người kinh tế mà cả con người văn hóa nữa. Dù mỗi người có một đường hướng, khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng mẫu số chung là, đều vì tương lai của đất nước Việt Nam.
Trước hết, hãy nghe Nhà nghiên cứu 95 tuổi Nguyễn Đình Đầu, nguyên Phụ tá Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền trong chính phủ 2 ngày của Tổng thống sau cùng Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh chia sẻ: “Tôi thấy về vấn đề đoàn kết dân tộc bằng văn hóa chúng ta mới có những chỉ thị. Còn nền văn hóa của Việt Nam mang bản sắc như thế nào thì chưa làm sáng rõ ra được. Vì thế, chúng ta cần phải giáo dục, xây dựng không chỉ con người khoa học, con người kinh tế mà cả con người văn hóa nữa. Dù mỗi người có một đường hướng, khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng mẫu số chung là, đều vì tương lai của đất nước Việt Nam.
Có như thế, người Việt Nam mới luôn
giữ được bản sắc riêng của mình trong thời đại mới. Bản sắc ấy chính là tình
yêu quê hương và lòng tự tôn dân tộc. Tình yêu quê hương, lòng tự tôn dân tộc
luôn giúp cho người Việt Nam hành động thuận theo lẽ phải, theo đại nghĩa và vượt
qua những thử thách hiểm nghèo nhất. Vậy nên, mỗi người Việt Nam hôm nay cần phải
coi trọng việc hòa hợp dân tộc là một trách nhiệm lịch sử tự nguyện.” (phỏng vấn của báo Thể
Thao-Văn hóa, 13/04/2015)
Chuyện “mới có những chỉ
thị” trong hành động “đoàn kết dân tộc” của đảng CSVN đã nói nói lên điều gì từ một nhân chứng lịch
sử của ngày 30/4/1975?
Cụ Nguyễn Đình Đầu đã chứng
minh nội dung trong khoản 1 của Điều 60 Hiến pháp 2013 chỉ nói mà
không hành. Điều này viết: “Nhà nước, xã hội
chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.”
Nếu có “văn hóa tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân
tộc” thì tại sao vẫn còn nuôi dưỡng hận thù đồi với 74 chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa,
những con dân nước Việt đã hy sinh trong trận chiến chống quân Trung Cộng
xâm lược quần đào Hoàng Sa năm 1974?
Dòng máu đỏ của những người
da vàng Việt Nam Cộng hòa có khác với những dòng máu của 64 Bộ đội CSVN hy sinh
trong trận chiến Trường Sa chống quân Tầu
xâm lược năm 1988 không?
Nếu không khác thì tại sao
chỉ dựng Tượng đài kỷ niệm 64 người của quân đội CSVN tại thành phố Cam Ranh, tỉnh
Khánh Hòa ngày 14/03/2015, đúng vào ngày này 27 năm trước họ bị quân Tầu hạ sát
dã man tại trận chiến đá Gạc Ma, mà không được nổ súng theo lệnh của Bộ trưởng
Quốc phòng lúc đó là Lê Đức Anh.
Đại tướng Lê Đức đã bị
nhiều Sỹ quan quân đội Nhân
dân, kể cả Thiếu tướng nguyên Đại sứ Việt
Nam tại Bắc Kinh, Nguyễn Trọng Vĩnh, cáo buộc là người thân Trung Cộng. Tướng
Anh cũng đã lén lút qua mặt Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao để
sắp đặt với các Đặc sứ của Bắc Kinh tổ chức chuyến đi bí mật đến Thành Đô (Tỉnh Tứ
Xuyên) năm 1990 của phái đoàn Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (Thủ tướng) Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng.
Mục đích chuyến đi là để tái lập quan hệ
ngoại giao với Trung Quốc, nhưng phải thỏa mãn điều kiện của Trung Quốc đòi
Việt Nam rút quân đội Việt Nam khỏi chiến trường Kampuchia và
không được nhắc đến cuộc chiến xâm lược biên giới phía bắc Việt Nam năm 1979 của
600,000 quân Trung Cộng.
Đến nay, 25 năm sau, những
thỏa hiệp bí mật Thành Đô giữa Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Tổng Bí thư đảng Cộng
sản Trung Quốc Giang Trạch Dân vẫn bị phong tỏa.
Trường Sa
và Hoàng Sa
Do đó, mỗi khi nhắc đến cuộc chiến Gạc Ma là mọi người đều nhớ đến trách nhiệm lịch sử không
thể chối cãi của ông Lê Đức Anh, người sau này làm đến chức Chủ tịch Nước
(1992-1997) đối với 64 người lính đã bỏ mình ở đó.
Vì vậy không có gì sai
trái khi đền ơn những người đã hy
sinh cho Tổ Quốc, nhưng đã làm thì phải làm cho tất cả mọi người đã đổ máu cho
một lý tưởng chống ngoại bang Trung Cộng xâm lược để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, kể cả trên
40,000 quân và dân 6 tỉnh biên giới phía bắc đã hy sinh trong cuộc chiến chống quân Tầu từ 1979 đến 1987.
Nhưng đảng và nhà nước
CSVN đã không dám làn như thế để giữ trọn tình nghĩa láng giềng “vừa là đồng chí vừa
là anh em” với đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cũng thật không công
chính khi Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) Đặng Ngọc Tùng
phát biểu tại lễ dựng tượng đài ngày 14/04/2015: "Theo nguyện vọng của
thân nhân của những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh ở Gạc Ma năm 1988 cũng như của
cả nước là có một khu tưởng niệm các anh hùng Gạc Ma để thân nhân các liệt sĩ
hàng năm về đây viếng người thân của mình, đồng
thời giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ sau này. Do đó việc
xây dựng tượng đài tại đây trong chương trình "Nghĩa tình Hoàng Sa- Trường
Sa" với hy vọng đáp ứng được phần nào nguyện vọng của thân nhân chiến sĩ Gạc Ma cũng như của
công đoàn cả nước cùng toàn thể nhân dân hướng về các anh hùng liệt sĩ đã
hy sinh.”
Tại sao lại có cả “Hoàng
Sa” trong cuộc vận động quyên góp tiền bạc chỉ dành cho Gạc Ma? Hương hồn của 74
chiến sỹ VNCH hy sinh ở
Hoàng Sa có “xơ múi” gì trong cuộc quyên góp tiền bạc do Tổng liên đoàn
Lao động Việt Nam tổ chức?
Chắp vá Hoàng Sa vào làm
gì ngoài mục đích tuyên truyền đoàn kết ngoài mặt? Không ai ở Việt Nam trả lời câu hỏi này của
thân nhân 74 người lính VNCH và của người dân VNCH cũ.
Nhưng rất rõ là hành động
thiên vị một phía của tổ chức TLĐLĐVN được sự đồng tình, tiếp tay của Nhà nước đã cho
thấy chủ trương “hòa giải-hòa hợp dân tộc”, vẫn thường được nghe phát ra từ cửa
miệng lãnh đạo bấy lâu nay chỉ là “nước lã ao bèo”.
Cũng thật ảo tưởng khi
Khoản 3 trong Điều 60 Hiến pháp còn viết: “Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng
gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng
con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần
đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm
công dân.”
Bởi lẽ trong thực tế Nhà nước đã không làm
như Hiến pháp quy định với dân
trong đời sống hàng ngày ở Việt Nam mà đi hàng hai như ghi trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
khoá đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu về “xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nghị quyết này có đoạn viết: “Phương hướng chung
của sự nghiệp vǎn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc , ý thức độc lập
tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…”
Như vậy phải chăng những
ai không đóng góp vào việc “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” như 74
người lính VNCH chết ở Hoàng Sa thì phải bị gạt ra khỏi hàng ngũ yêu nước?
Hãy đọc lời phê bình của
Nhà văn, Đại tá Quân đội Nhân dân nghỉ hưu Phạm Đình Trọng trong bài viết ngày 11/04/2015: “Dựng
tượng đài khắc ghi vào thời gian, khắc ghi vào tâm linh Việt Nam những dòng máu
thiêng Việt Nam đã đổ ra để giữ biển Đông, mảnh thềm không thể tách rời của
ngôi nhà hương hỏa Việt Nam là đòi hỏi khẩn thiết của mọi trái tim Việt
Nam hôm nay và mãi mãi mai sau. Nhưng nếu chỉ dựng tượng đài Chiến sĩ Gạc Ma 1988 thì vừa
bất công, vừa hẹp hòi, nhỏ nhen, chật chội quá! Một hành xử chính trị nhưng dường
như phản chính trị! Chỉ là thứ chính trị thô thiển, bè phái, cục bộ! Một việc
làm khoét sâu thêm nỗi đau li tán dân tộc cũng là làm suy yếu dân tộc.”
Ông nói thêm: “Những
người lính của chính quyền Sài Gòn chết ở Hoàng Sa năm 1974
trong cuộc chiến chống quân Tàu Cộng xâm lược. Những người lính của
chính quyền Hà Nội cũng chết trong cuộc chiến chống quân Tàu Cộng xâm
lược Gạc Ma, Trường Sa năm 1988. Họ đều chết cho Tổ quốc Việt Nam,
chết trên những doi cát ngay
thềm ngôi nhà Việt Nam mang
hồn thiêng cha ông. Nay chỉ dựng tượng đài ghi công Chiến sĩ Gạc Ma 1988 thì tượng
đài chật chội, nhỏ nhen, hẹp hòi đó không thể mang tấm lòng bao dung của Mẹ Việt
Nam, không thể bền vững cùng non nước Việt Nam mà chỉ là tượng đài của một
thế lực phe nhóm và chỉ tồn
tại cùng thế lực phe nhóm đó mà thôi.”
Cũng với tư duy hẹp hòi,
phe nhóm và cực đoan Cộng sản, những người cầm quyền cũng đã làm ngơ với
khuyến nghị tri ân chiến sỹ VNCH ở Hoàng Sa của
Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình, trong đó có Nhà nghiên cứu nổi tiếng Nguyễn Đình Đầu và những
nhân sỹ, trí thức khác ở Việt Nam là một bằng chứng hòa giải của người Cộng sản
chỉ có trên đầu môi chót lưỡi.
Nên biết Cụ Nguyễn Đình Đầu, người
thuộc thành phần Thứ Ba trong giải pháp chính trị ở miền Nam sau cuộc chiến theo Hiệp định Paris
1973, từng nỗ lực giàn xếp một giải pháp đoàn kết dân tộc vào giờ cuối
cùng của cuộc chiến nhưng phe Cộng sản đã bác bỏ thẳng tay.
Cụ kể: “Ngày ấy, chính
xác là sáng ngày 29/4 luật sư Huyền (Nguyễn Văn Huyền, Phó tổng thống Việt
Nam Cộng hòa ) yêu cầu tôi phải thành lập một phái đoàn để đi gặp đại diện
Chính phủ Cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Tân Sân
Nhất. Được sự chấp thuận của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các, tôi đã lên
danh sách phái đoàn gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Văn Hạnh là người có liên
lạc với kháng chiến và một người nữa có chân trong tình báo là ông Tô Văn
Cang. Nói là điều đình nhưng thực ra phía Việt Nam Cộng hòa biết mình sẽ thua, việc
chính quyền mới thành lập được một ngày, không có ý sẽ tiếp tục kháng chiến mà là để thi hành Hiệp
định Paris là chính.
Chúng tôi từ Tân Sơn Nhất
trở về, gặp Tổng thống Dương
Văn Minh đang đứng ở ngoài sân. Chúng tôi báo cáo với ông ấy việc điều đình về dân sự không đạt được kết quả. Ông Minh tỏ ra bất
lực. Ngay sau đó, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền giao cho tôi soạn thảo
bản tuyên bố “Chấp nhận điều kiện ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và ngay
sau đó được Phó tổng thống Huyền trình lên tổng thống.
Tướng Dương Văn Minh chấp thuận cho ông Huyền công bố bản dự thảo này
trên Đài Phát thanh Sài Gòn lúc 17 giờ ngày 29/4/1975.
Sáng ngày 30/4 tôi cùng
ông Huyền lên gặp Tổng thống
Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu (Thủ tướng) tại số 6 đường Thống Nhất (đường
Lê Duẩn ngày nay) để bàn về vấn đề ngưng chiến. Đến 9 giờ, Tổng thống Minh
ra một tuyên bố phía Việt Nam Cộng hòa sẽ ngưng tiếng súng, chờ cách mạng tới
để giao lại quyền hành.
Đến 11h30 quân giải phóng
tiến vào Dinh Độc lập thì
lúc bấy giờ nhiệm vụ của tôi cũng chấm dứt nên tôi rời khỏi dinh...” (báo Thể Thao-Văn hóa,
13/04/2015)
Cụ Nguyễn Đình Đầu là một
Nhân sỹ Công giáo nổi tiếng với nhiều công trình nghiên cứu Sử-Địa, đặc biệt về chủ quyền của Việt Nam trên hai
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy cụ đã rời khỏi Dinh Độc lập khi tướng Dương
Văn Minh “đầu hàng”, nhưng sau đó Cụ lại tích cực tham gia vào Câu lạc bộ
Phaolo Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám mục Địa phận Sài Gòn đã quá vãng, để tiếp tục đối thoại với
chính quyền Cộng sản trong tinh thần
“sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc”.
Rất tiếc, nỗ lực của Cụ và của
các Tu sỹ và Trí thức Công giáo, dưới quyền Chủ tịch Ủy ban Công lý
và Hòa bình của Giáo hội Cộng giáo Việt Nam, Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Giám mục
Giáo phận Vinh, không được chính quyền Cộng sản đáp ứng. Ngược lại nhà cầm quyền Cộng sản ở Sài Gòn đã
ngăn chận một số cuộc Hội thảo về tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ của Việt Nam ở
Biển Đông và những bức xúc xã hội khác do Câu lạc bộ đề xướng.
Công an còn xách nhiễu, dọa
nạt những người đến tham dự Các cuộc thảo luận tại Câu lạc bộ, trong đó có
Giáo sư Tương Lai, cố Luật sư Lê Hiếu Đằng, Bác sỹ Huỳnh Tấn Mẫm từng là nạn
nhân.
Điều này cho thấy trong suốt
40 năm qua, chưa bao giờ Lãnh đạo Cộng sản chịu lắng nghe những lời nói chân thật,
thẳng thắn và chí tình của người dân, đặc biệt của các thành phần trí thức và cựu
đảng viên cách mạng lão thành trong nước về “hòa giải-hòa hợp” dân tộc
để đoàn kết trong ngoài xây dựng đất
nước.
Vì vậy, khi nhà nghiên cứu
Nguyễn Đình Đầu nói về “con người văn hóa” thì muôn vàn bằng chứng cho thấy sau
40 năm chấm dứt cuộc chiến huynh đệ tương tàn do người Cộng sản chủ mưu gây ra, đảng
CSVN vẫn chưa hề có “văn hóa hòa giải” .
Từ Nghị
quyết 36
Người Cộng sản chỉ muốn
người khác phải tự nguyện “hòa hợp” vào guồng máy cai trị độc tài toàn trị của
mình. Ai đứng ngoài, ai chống lại đều bị chụp lên đầu chiếc nói cối phản động, phản
cách mạng, thế lực thù địch chống đảng,
chống nhà nước và nhân dân!
Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày
26/3/2004 của Bộ Chính trị “về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” đã 11 năm
tuổi, nhưng những gì đảng nói vẫn “trăm voi không được bát nước xáo”.
Nghị quyết này chủ trương “Xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp;
xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất
thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu
trên đều được tập hợp trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc”, nhưng mọi chuyện vẫn
anh là anh, tôi là tôi.
Tình trạng phân biệt địa
phương Nam-Bắc, kẻ thắng người thua vẫn phủ đầy trong xã hội và trên mọi lĩnh vực
từ nơi làm việc đến học đường.
Bằng chứng như hàng ngàn
Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa bị
tàn tật vẫn phải lê lết trên đường phố kiếm ăn không được nhà nước
mệnh danh “của dân, do dân và vì dân” giúp đỡ khi đau ốm chứ chưa nói đến miếng cơm manh áo.
Chẳng những thế, họ còn bị hất hủi, ngăn
chặn không cho nhận giúp đỡ của các Tổ chức Tôn giáo và Dân sự xã hội như đã
liên tục xẩy ra ở miền Trung và tại Sài Gòn.
Cách hành sử này không những
chỉ thiếu văn hóa và truyền thống dân tộc mà còn
chà đạp lên nhân phẩm và quyền con người và vi phạm những Điều quan trọng của Hiến pháp 2013 do chính người
Cộng sản viết ra chỉ nhằm tuyên truyền:
Điều 16 :
1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt
đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Điều 38 :
1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện
các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.
2. Nghiêm cấm các hành vi
đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng.
Tại sao như thế? Vì đảng Cộng sản Việt
Nam vẫn tiếp tục coi những nạn nhân
của chiến tranh sống trên lãnh thổ
VNCH cũ là những kè thù của chế độ.
Đó là lý do tại sao đảng
chưa thể đoàn kết được dân trong nước thì làm sao có thể đoàn kết với người Việt đã trốn
Cộng sản ra nước ngoài?
Vì vậy, Việt kiều muốn biết những điều sau đây:
- Tại sao Đảng vẫn tiếp tục đàn áp người dân
tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn biển đảo của Việt Nam?
- Tại sao người dân bị
đàn áp, bị phá phách khi xuống đường đòi được tưởng niệm các chiến sỹ và đồng bào đã hy
sinh bảo vệ Tổ quốc ở Hoàng Sa năm 1974, biên giới Trung-Việt và ở Trường Sa
năm 1988?
- Tại sao lại đàn áp những
người dân đòi đền bù công bằng vì bị cưỡng chế đất đai và tịch thu tài
sản cho các công trình xây dựng chỉ có lợi cho phe nhóm là chính?
- Tại sao các quyền tự do căn bản của dân
được Hiến pháp bảo đảm như tự do
tôn giáo, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp vẫn còn bị
kìm kẹp, hạn chế và kiểm soát?
- Và do Luật pháp nào cho
phép mà Nhà nước được quyền sử dụng côn đồ và công an để hù họa, đàn áp, bắt cóc những
người hoạt động bảo vệ nhân quyền, dân chủ ?
- Căn cứ vào đâu mà Nhà
nước được lạm quyền lấy đi công ăn việc làm, cuớp quyền hành nghề và chận đứng mọi cách kiếm sống của những đối tượng
đã hết hạn tù chính trị hay đấu
tranh đòi các quyền tự do ?
- Lý do nào cho phép nhà
nước căn cứ vào lý lịch thuộc gia đình cách mạng, cán bộ và đảng viên để bao
che cho những phần tử xấu và không có khả năng được có công ăn việc làm trong
khi người có tài nhưng không có tiền “mua việc” thì bị lọai?
- Ai cho phép nhà nước tiếp tục cướp đất, tài sản
và phá bỏ những nơi thờ phượng của các Tôn giáo, đặc biệt của người dân tộc ở
những vùng cao và vùng sâu cách xa các Thánh đường, Nhà Chùa?
-Người dân nào cũng muốn
biết tại sao nhà nước lại để
cho Trung Quốc tự do biến 7 đá chiếm của Việt Nam ở Trường Sa thành các đảo nhân tạo với sân
bay, bến cảng, đồn bót được thiết lập ở đó?
- Tại sao Tổng Bí thư đảng
Nguyễn Phú Trọng, chưa hỏi ý kiến Quốc hội mà đã bằng lòng để cho Trung Quốc thiết lập các Đặc khu kinh tế dọc biên giới, khai thác
chung dầu khí ở vùng biển “trong” và “ngoài” vịnh Bắc Bộ trong thỏa hiệp ký tại
Bắc Kinh ngày 7/4/2015?
- Sau cùng ai cho ông Trọng
quyền đồng ý nghiên cứu để
cho Trung Quốc dùng cảng Hải Phòng phục vụ kế hoạch vận chuyển hàng
hóa có lợi cho Trung Quốc. Kế hoạch kinh tế của Bắc Kinh được gọi là “Con dường Tơ lụa
trên biển”, được Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình công bố năm
2014, nhằm bành trướng cánh tay phát triển và tham vọng kinh tế của Trung Hoa tới Đông
Nam Á, Nam Á, Phi Châu,Trung Đông và Châu Âu.
Nếu nhà nước không trả lời
được những thắc mắc trên thì hãy ngưng ngay lập tức luận điệu quy chụp Kiều bào như của ông Thứ trưởng
Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài Vũ Hồng Nam. Ông Nam
nói rằng: “Điều đáng buồn là có một bộ phận nhỏ kiều bào ở nước ngoài vẫn
còn giữ định kiến, làm những việc đi ngược lại lợi ích của đất nước, dân
tộc.” (Tạp chí Quê
hương, 31/01/2015)
Nhưng ông Nam có hiểu tại
sao cái bộ phận lớn chứ không phải nhỏ như ông méo mó cho đẹp lòng đảng vẫn đi
biểu tình chống Nhà nước của ông không ?
Đơn giản vì đồng bào của
họ ở Việt Nam vẫn phải đối diện với những thắc mắc của Việt kiều nêu trên, nhất là khi
quyền làm người của họ đã bị
những luật lệ ngoài luồng pháp lý như hai Luật Dân sự và Luật Hình Sự cho phép
Công an bắt bớ tùy tiện dựa vào các Điều phản dân chủ 79, 88 và 258.
Ngoài ra cũng nên nhớ người
tiền nhiệm của ông là Nguyễn
Thanh Sơn, bây giờ là Đại sứ ở Nga, đã nhiều lần vu khống Việt kiều chống đảng, trong đó có
chuyện bịa ra việc người đi biểu tình đã được trả tiền để chống Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang hồi tháng 7 năm 2013 khi ông Sang đến Tòa Bạch ốc gặp Tổng thống
Barack Obama.
Ông Sơn còn kêu gọi phải:
"Cần nhanh chóng thu hẹp và đi đến xóa bỏ mọi khoảng cách,
sự khác biệt giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước, đấu tranh phân hóa, đập
tan mọi luận điệu chia rẽ, xuyên tạc để hơn 90 triệu đồng bào ở trong nước và
4,5 triệu kiều bào ta ở nước ngoài trở thành một khối đại đoàn kết thống nhất, sẵn sàng vượt
qua mọi khó khăn thử thách đưa đất nước vững bước đi lên…" (phát biểu tại Hội
nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài, từ 20-21/5/2014 tại Hà Nội.)
Nhưng đấu tranh với ai và
ai đã xuyên tạc những việc làm sai trái, phản dân chủ của đảng CSVN trong mấy
năm qua?
Văn hóa -
Văn nghệ Nam Bắc
Bước sang lĩnh vực văn
hóa, văn nghệ, cán bộ lãnh đạo Tuyên giáo cũng đã xuyên tạc đổi trắng thay đen
nền Văn hoá thời VNCH nhân
dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30-4.
Dưới tiêu đề “Hòa hợp dân tộc bằng
con đường văn hóa”, ông Tiến sỹ-Phó giáo sư Nguyễn Thế Kỷ, Phó trưởng Ban Tuyên
giáo Trung ương đã nhận xét hàm hồ về văn hóa - văn nghệ thời VNCH như thế này: “Thực tế cho thấy, hơn 30 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đất nước ta
không chỉ bị chia cắt về địa lý mà đây đó còn bị chia rẽ lòng người. Đặc biệt là
trong 20 năm miền Nam dưới chính quyền cũ. Bằng hệ thống tâm
lý chiến khổng lồ với nhiều thủ đoạn thâm hiểm, các
hoạt động tuyên truyền phục vụ chiến tranh xâm lược và chủ
nghĩa thực dân kiểu mới đã được đẩy mạnh, tạo ra một thứ văn hóa nô dịch, đồi truỵ,
lôi kéo một bộ phận khá đông thanh niên trong các thành thị chạy theo lối sống
gấp, vị kỷ, sa đọa, hòng hủy hoại những giá trị văn hóa dân tộc. Nguy hiểm hơn,
họ còn bị đẩy đến niềm tin rằng Việt Nam Cộng hòa là quốc gia riêng biệt, tách
rời khỏi nước Việt Nam thống nhất; rằng “giải phóng miền Nam” thực chất là cuộc
xâm lược của những người cộng sản miền Bắc.” (báo Thể thao-Văn hóa,
20/02/2015)
Thật trớ trêu, sau ngày
30/4/1975, không biết đã có bao nhiêu trí thức và văn nghệ sỹ miền Bắc đã chạy xô vào Sài
Gòn tìm mua sách báo mà Nguyễn Thế Kỷ đã bôi đen để nghiên cứu và tìm hiểu nếp sống văn hoá-văn nghệ
phong phú của dân trong Nam.
Vậy nếu muốn so sánh hai nền Văn hoá miền Nam tự do với miền Bắc lai Tầu, lai Nga và
sặc mùi đảng từ sau bản án Nhân văn Giai phẩm (1958) ra sao thì hãy hỏi những
người còn sống rất giầu vốn liếng văn học-nghệ thuật như các Nhà văn Nguyên Ngọc, Trần Mạnh
Hảo, Tiêu Dao Bảo Cự, Nhà biên sử Nguyễn Nhã và Nhà nghiên cứu cụ Nguyễn Đình Đầu
v.v… để so sánh, chả cần phải đi đâu xa.
Hoặc muốn cẩn thận hơn
thì hãy đến thắp hương trước mộ hai
Nhà Thơ Mầu Tím Hoa Sim Hữu Loan và Thi sỹ Hoàng Cầm để hỏi thêm cho đủ.
Hơn nữa, ông tuyên giáo
Nguyễn Thế Kỷ cũng nên đọc lại phê
bình gay gắt của Nghị quyết Trung ương 5 khóa đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu để thấy nền văn nghệ đảng kiểm soát đã “siêu việt” ra sao.
Nghị quyết phê phán: “Đời sống
vǎn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng
với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và
thành quả của đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh
khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách mạng và kháng chiến, đối lập vǎn nghệ với
chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với
chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng
"thương mại hóa", chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức
nǎng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của vǎn học, nghệ thuật bị suy giảm.
Nghị quyết 04 của Trung ương (khóa
VII) về vǎn hóa - vǎn nghệ được
đại bộ phận vǎn nghệ sĩ đồng tình. Một số có nhận thức lệch lạc đã trở lại với
cái đúng; các khuynh hướng xấu từng bước bị đẩy lùi. Tuy vậy, một số quan điểm
sai trái vẫn xuất hiện. Các loại vǎn hóa phẩm độc hại vẫn còn xâm nhập vào xã hội
và các gia đình. Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ǎn, khách sạn, sàn nhảy mở
tràn lan, chạy theo đồng tiền, hoạt động tùy tiện,
không tuân thủ những quy định của pháp luật; các cơ quan quản lý nhà nước không
có biện pháp hữu hiệu để xử lý.”
Tiềm lực đội ngũ sáng tác,
nghiên cứu, lý luận, phê bình về vǎn học nghệ thuật còn yếu… Một số ngành nghệ thuật
như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó khǎn. Việc giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học
sinh chưa được coi trọng… Về thông tin đại chúng, còn
nhiều sản phẩm chất lượng thấp,
chưa kịp thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra.
Báo chí chưa biểu dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng
như thiếu sự phê phán kịp thời những
việc làm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội…
Khuynh hướng "thương mại hóa", lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá
phổ biến. Một số ít nhà báo đã
vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực, gây tác động
xấu đến dư luận xã hội, nhưng
chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật….”
Những điểm bất cập của giới
Văn nghệ sĩ và báo chí từ thời đảng VIII đến nay (Khóa đảng XI) đã
ngót 20 năm có khá hơn không thì các ông Lãnh đạo trong các Tổ chức Tuyên giáo
Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền Thông, Hội Nhà văn và Hội
Nhà báo phải có câu trả lời cho ông Nguyễn Thế Kỷ.
Tiếc rằng việc “uốn lưỡi 7 lần
trước khi nói” ít khi được các viên chức đảng thực tập nên chuyện đảng hòa giải
với ai và hòa hợp cái gì sau 40 năm ngày 30 tháng 04 năm 1975 không còn hấp dẫn
được ai nữa.
(04/015)
Phạm Trần
0 nhận xét:
Đăng nhận xét