Một dãy kẹo cu đơ bên quốc lộ 1A đoạn đi qua Hà Tĩnh. (Hình: Liêu Thái/Người Việt) |
Ai
đã đến xứ Bắc miền Trung và phía Nam miền Bắc như Hà Tĩnh, Nghệ An,
Thanh Hóa, Ninh Bình, chắc khó mà quên vị cu đơ và mơ lông. Đây cũng là
đặc sản của vùng đất này.
Dọc quốc lộ 1A, đoạn đi qua các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa và
Ninh Bình, đi đâu cũng có thể gặp các quán bán kẹo cu đơ, bán trái mơ
lông tươi hoặc nước mơ lông lên men. Hai món này như một thức quà quê
của người bán hàng rong xứ nghèo chiêu đãi, chào hàng khách thập phương.
Kẹo cu đơ
Nói về cu đơ, người ta nói về những lao động nghèo, bữa ăn thiếu
thốn, phải chật vật dầm mưa dãi nắng. Kẹo cu đơ như một thứ năng lượng
bổ sung, giúp cơ thể đỡ nhức mỏi, khỏi thiếu hụt năng lượng. Thường thì
người lao động từ ông phu xe cho đến bà đi chợ, bà buôn rau cải, người
nông dân ngoài đồng... đều lận theo một chiếc bao nilon nhỏ có chứa mấy
miếng cu đơ để khi nào mệt, đói bụng, lại mở gói, lấy ra cắn một miếng
rồi lại cẩn thận gói lại, bỏ túi.
Cái thú vui nhấm
nháp miếng kẹo cu đơ, sau đó cất miếng còn lại như một gia tài nhỏ bảo
vệ và duy dưỡng sức khỏe đã giúp người lao động nghèo vượt qua cơn mệt
nhọc, vượt qua thời tiết khắc nghiệt mà trụ lại với ruộng đồng, cuộc
sống.
Có một điểm rất chung của miền Trung nắng gió là hầu hết các món đặc
sản đều liên quan đến mía đường, nếu như ở Quảng Ngãi có kẹo mạch nha
làm bằng đường non, nếp cốm, Quảng Nam-Đà Nẵng có kẹo đậu phộng làm bằng
bánh tráng, đường thắng già, đậu phộng rang, Huế có kẹo mè xửng làm
bằng đường non và nếp cốm bột, đậu phộng rang, mè... thì Bắc miền Trung
và phía Nam miền Bắc có kẹo cu đơ làm bằng đường non, bánh tráng sắn dát
mỏng và đậu phộng, mè.
Trên một nghĩa nào đó, kẹo cu đơ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa và Ninh
Bình kết hợp được công thức và hương vị của cả ba loại kẹo của đầu phía
nam và trung miền Trung. Kẹo cu đơ có hương vị thơm dịu của nếp cốm, có
vị dẻo của kẹo mè xửng Huế, có vị hơi hăng hăng đường non của mạch nha
Quảng Ngãi lại có vị thơm ấm, bùi ngọt của kẹo đậu phộng Quảng Nam-Đà
Nẵng.
Không biết khi làm kẹo cu đơ, người thợ có nghĩ đến việc kết hợp yếu
tố mùi vị và chất liệu hay không. Nhưng có một điểm chung nữa, khá hấp
dẫn, đó là giá kẹo cu đơ khá rẻ, nó phù hợp với người nghèo. Những người
đồng bào thiểu số từ trên rẻo cao Trường Sơn xuống thăm phố, với số
tiền trong túi ít ỏi, mua một món quà phố về cho con cháu, thì còn món
gì khác ngoài kẹo cu đơ vừa ngon, vừa rẻ mà lại hợp với cái bụng hay
thiếu ăn? Kẹo cu đơ từ xưa cho đến giờ vẫn luôn là bạn thiết của người
nghèo, người có thu nhập thấp. Mua về chốn núi rừng, cu đơ lại hội ngộ
với mơ lông.
Trái Mơ Lông hay còn gọi là đào tiên hoặc đào lông. (Hình: Liêu Thái/Người Việt) |
Nước mơ lông
Mỗi vùng miền đều có một câu ca dao nào đó để nói về món ăn đặc trưng
xứ mình. Ví dụ như Quảng Nam có câu: “Ai về nhắn với bạn nguồn, mít non
em gởi xuống cá chuồn anh gởi lên.” Nếu chỉ đọc qua cái vỏ ngôn ngữ thì
câu ca dao đơn giản nói về món ăn khế hợp giữa biển với rừng, đặc sản
của người bình dân. Mít non thì trên rừng nơi nào mà chẳng có, cá chuồn
thì đến mùa, dong buồm ra khơi, chỉ cần gõ nhẹ mạn thuyền, nó bay thành
từng đàn đậu lên mui thuyền, chỉ cần dang tay lùa vào thùng...
Nhưng ngẫm kĩ,
dường như ông bà mình rất thâm thúy, yếu tố âm dương, ngũ hành cũng hàm
ẩn trong câu ca dao. Mít non thì của “em” trên núi gửi xuống, mà cá
chuồn thì của “anh” dưới biển gởi lên. Vô hình trung, yếu tố âm dương
hội tụ trong trái mít non của em và con cá chuồn của anh. Tính hài hòa
về giới tính, ngẫu tượng sắc dục được gửi gắm khéo léo trong câu ca dao
nói về món ăn. Và đương nhiên, không riêng gì thức ăn mà bất cứ thứ gì
xuất hiện trong cuộc đời, trong thế giới loài người này, nó sẽ chẳng còn
hấp dẫn, chẳng còn ý vị nếu không hàm chứa yếu tố sắc dục bên trong.
Kẹo cu đơ cũng vậy, người Hà Tĩnh có câu: “Cu đơ anh để bao giờ, gặp
em xứ núi bất ngờ mơ lông.” Cu đơ là kẹo của đồng bằng, vốn kết hợp với
nước chè xanh. Nhưng khi nhai kẹo cu đơ, uống nước mơ lông thì chỉ còn
nghe đất trời thấm vào từng chân tơ kẽ tóc, một bên ngọt lịm, ngọt đến ê
lưỡi, một bên mát dịu, hơi chua, khai khái hương vị núi rừng và mát
lạnh. Hai vị này hòa quyện vào nhau, tạo cảm giác sảng khoái, lâng lâng
khó tả.
Nói về nước mơ lông (tức trái đào tiên, còn gọi là đào lông ngâm với
đường, để lâu ngày lên men say như rượu, pha với nước đá để uống, người
miền núi phía Đông Trường Sơn gọi là nước mơ lông), vị ngọt pha chút men
của trái cây thành rượu cộng với một ít nước đá làm lạnh của loại nước
này, nếu chỉ uống đơn thuần giải khát thì không mấy hấp dẫn. Nhưng nếu
uống kết hợp với kẹo cu đơ thì miễn bàn về độ ngon.
Và cũng không biết tự bao giờ, người sành ăn xứ Thanh Nghệ Hà thường
kết hợp thuốc lào, nước mơ lông, chè xanh và kẹo cu đơ. Người có ít tiền
thì nhâm nhi kẹo cu đơ với nước chè xanh, làm một ngao thuốc lào, người
có nhiều tiền một chút thì ăn kẹo cu đơ, nhâm nhi nước mơ lông. Nhưng
có nhiều cho lắm thì cũng không tới mười ngàn đồng (tương đương $.0.5)
cho mỗi lần “ăn chơi.”
Bởi cả hai món này đều là sản phẩm sáng tạo của giới lao động nghèo
và nó được tạo tác để phục vụ cho giới lao động nghèo. Nhưng nó cũng có
niềm kiêu hãnh của nó, giới có tiền cũng không thể chê rằng nó không
ngon được. Có thể là nó quá ngọt hoặc quá chua nhưng không ai dám chê ăn
cu đơ uống mơ lông là dở cả. Nhưng nói cho cùng thì dẫu sao hai món này
vẫn hợp với người nghèo, người có ít tiền.
Cu đơ và mơ lông như một ân sủng dành riêng cho giới lao động nghèo, ở
đó, mọi mệt mỏi, đói kém, thiếu thốn sẽ được bù đắp bởi vị ngọt đậm,
được giải tỏa bởi vị chua chua mát lạnh và bay vèo đi sau một ngao thuốc
lào, mọi sự lại đâu vào đấy, cuộc đời vẫn cứ tươi đẹp, đáng yêu. Như
cặp lục bát tự sáng tác của chị Hoa, chủ một tiệm cu đơ-mơ lông nổi
tiếng ở Hà Tĩnh: “Cu đơ quyện với mơ lông, chua chua ngọt ngọt vợ chồng
thêm thương!”
Liêu Thái/Người Việt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét