Ads 468x60px

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

Tinh thần Vua Quang Trung

Vua Quang Trung (Photo by vietlist.us)
Lưu Trung Khảo
Trong bài viết "Lịch sử và Thời sự" của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh, bà  đề cập về sự liên hệ lịch sử giữa xứ Tàu và Việt Nam, đặc biệt là về Ðại Ðế Quang Trung đã khiến cho quân Tàu kinh khiếp khi bỏ chạy về xứ. Vua Quang Trung còn đòi lại Lưỡng Quảng cho Việt Nam. Trong chiều hướng đại họa mất nước như hiện nay, niềm tự hào về tinh thần Vua Quang Trung thật đáng tôn vinh. Minh Đức Hoài Trinh ghi nhận trong bài viết:
“Thời sự là những biến cố quan trọng đang xẩy ra trong thời gian hiện tại và khi thời gian trôi qua những biến cố quan trọng nầy trở thành những biến cố của lịch sử. Từ nhiều thế kỷ qua xứ Tàu là một trong những xứ có nền văn minh tân tiến nhất thế giới; về mặt kthuật, văn hóa, k nghệ, thiên văn, địa lý v.v. . . Ngay cả tư tưởng như Khổng Minh. Ông là một thiện tri thức đã từng quảng bá khắp nơi tư tưởng hiền hòa, lễ nghĩa, cách sống ngăn nắp trong gia đình như ngoài xã hội và đất nước, nhưng than ôi! Xứ nầy lại có những nhà vua như Nhà Tống, Nhà Nguyên và Triều Đại Nam Hán v.v. . . hung hăng có tham vọng lấn chiếm các nước láng giềng để thực hiện cái ảo vọng “Đại Hán” của chúng và họ đã thành công chiếm lấy Quảng Đông, Quảng Tây, Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ.
Có một lần tôi vô tình làm buồn lòng một người bạn người Hoa trong một đại hội sinh viên quốc tế. Khi mỗi người phải tự giới thiệu xuất xứ của mình. Nếu anh bạn người Hoa của chúng tôi chỉ nói tôi là người Hoa thì không ai đặt vấn đề nhưng khi anh nói thêm anh rất hãnh diện là người Hoa thì ngay lúc đó có người hỏi anh ở vùng nào? Anh bảo ở phía Nam nước Tàu. Vậy thì anh nói tiếng Quảng Đông có phải không? Anh xác nhận là tất cả những người trong vùng vẩn nói tiếng Quảng Đông. Thế thì anh bị người Tàu đồng hóa anh mà anh không biết chăng? Câu hỏi của tôi làm anh lúng túng và tôi lấy làm ân hận đã đặt anh trong tình huống quá ngỡ ngàng trước đám đông! Trong lúc đó những người Á Đông khác họ rất hãnh diện nói lên họ xuất xứ từ đâu như: Tôi là người Mông Cổ, người Tây Tạng hay người Tân Cương. Chính tôi cũng có niền hãnh diện nói lên tôi là người Việt Nam đã nhiều lần bị đô hộ bởi người Hán nhưng không bị đồng hóa nhờ những vị vua như Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ, Lê Lợi là những vị vua đã cởi ách nô lệ hằng nhiều trăm năm từ người Trung Hoa.”.
Hãy ôn lại lịch sử vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Sau chiến thắng mùa xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung nỗ lực xây dựng đất nước. Dù chỉ tại vị có bốn năm khá ngắn ngủi, nhưng vua đã chứng tỏ ngài là một nhà quân sự lỗi lạc và còn là một nhà chính trị xuất sắc với bao hy vọng mở màn một kỷ nguyên mới cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Ví dụ như về chính trị, ngài cho phân chia Thăng Long thành Bắc thành, chia miền Trung châu Bắc hà thành 7 trấn là: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Phụng Thiên, Thanh Hóa ngoại. Miền sơn cuớc chia thành 7 trấn: Lạng Sơn, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Yên Quảng, Lạng Sơn, Cao Bằng và Tuyên Quang. Sự thay đổi địa lý hành chánh được hữu hiệu hơn. Ngài dự tính dời đô từ Phú xuân ra Nghệ An và nhờ La Sơn phu tử xây kinh đô ở đây gọi là Phượng Hoàng Trung Ðô. Ngài cho chấn chỉnh lại luật thuế khóa, khuyến khích nông dân gia tăng sản xuất. Ðến năm Quang Trung thứ tư, đời sống của người dân được sung túc thịnh vượng. Ngài đã tích cực kêu gọi nhân tài Bắc hà ra giúp nước. 
Vua Quang Trung (Photo by vietlist.us)
Về phuơng diện văn hóa, ngài cho mở nhiều trường học khắp các thôn xã. Những nơi nào không thể mở trường học thì mượn đình chùa làm nơi dạy dỗ. Vua Quang Trung là ông vua Việt nam đầu tiên đã có sáng kiến áp dụng một nền giáo dục phổ thông cho dân chúng. Và ngài cũng là vị vua đầu tiên đã thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc là dùng chữ Nôm trong tất cả các chiếu biểu, văn thư hành chánh. 
Mặt quân sự binh bị, quân lực Tây Sơn gồm loại 5 quân căn bản là: Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu và những đội quân đặc biệt dùng như lực lượng trừ bị phòng vệ là: Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Kiến thành, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sánh, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị Lân, Thị Loan. Ở các phủ huyện, có quân đội địa phương gồm có Ðạo, Cơ, Ðộị Quân chủ lực của Tây Sơn bấy giờ cứ hể 5 người  thì có một cây súng trường. Vì ngài chuẩn bị đánh nhau với nhà Thanh sau này, ngài thu đồ đồng trong nước để đúc đồ binh khí.
Sự sáng chói về mặt ngoại giao, thời đại Quang Trung là thời đại ngoại giao vàng son nhất lịch sử nước ta. Từ xưa chưa có một vị vua nào tỏ vẻ lấn áp nước Tàu như vua Quang Trung. Trước hết, ngài đã không chịu thân hành đi đón sắc phong của vua Càn Long, hủy bỏ tục cống người vàng hằng năm cho Tàu để đền mạng Liễu Thăng đã có kể từ thời vua Lê Thái tổ. Và cuối cùng cử sứ bộ sang Tàu đòi hai tỉnh Quảng Ðông và Quảng Tây, cũng như xin cưới công chúa nhà Thanh. Ðòi hỏi của vua Quang Trung đúng là sự đối đầu đối với Càn Long, là một ông vua vốn cao ngạo và kiêu hãnh nhất của đời nhà Thanh. Tuy nhiên rất nể uy thế của vua Quang Trung, Càn Long đã phải chấp thuận để tỉnh Quảng Tây cho vua ta đóng đô và chọn ngày đưa công chúa Thanh qua Việt nam. Nhưng tiếc thay, trong khi nhà Thanh chuẩn bị đáp ứng những đòi hỏi của Việt nam thì vua Quang Trung lại sớm ra đi.
Ngày nay khi nhìn lại lịch sử không thể nói hết những nét phi thường của vua Quang Trung. Ngài là một vị tướng quân anh minh thao lược nhiều phạm vi, chiến thắng vẻ vang từ lúc cầm quân đánh Phú yên cho đến lúc băng hà chưa một lần thất trận. Ngài là một nhà hành chánh chính trị tài giỏi qua sau bốn năm xây dựng Bắc hà qua các chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự và ngoại giao khôn khéo. Nhưng tình hình đất nước và chính sách của nhà Tây Sơn đối với triều đình Mãn Thanh, tiến hành việc thu hồi đất đai qua hôn nhân.
*
Tôi xin kính chúc nhà văn Minh Đức Hoài Trinh được nhiều khang an mạnh khoẻ, và xin dùng đoạn văn của bà như dưới đây thay cho phần kết luận.
“Đặc biệt nhất là vua Quang Trung sau khi chiến thắng cả bên trong lẫn quân Mãn Thanh, vua Càn Long phải chịu phong làm An Nam Quốc Vương, Vua Quang Trung nhận thấy nước ta đã đến thời có thể đương đầu với nhà Thanh về cả hai mặt chính trị và quân sự. Lịch sử xưa ghi rằng nước Nam Việt, phía Đông giáp bể Nam Hải, Tây giáp nước Ba Thục, Bắc giáp Hồ Động Đình và Nam giáp nước Hồ Tôn, vì Lý do ấy vua Quang Trung muốn đòi lại một phần đất đai. Chỉ trong mấy năm trời mà nước Việt Nam đã được xây dựng với một quy chế độc lập về chính trị, kinh tế và về văn hóa thì chúng ta bắt đầu dùng chữ Nôm thay chữ Hán để không phải lệ thuộc người Trung Hoa. Vua Quang Trung còn đi xa hơn nữa; vào năm 1791 Ngài gửi sứ bộ sangTrung Quốc đòi Lưỡng Quảng và xin cưới con gái của vua nhà Thanh và khi sứ bộ đến nơi thì được tin là vua đã băng hà."
Lưu Trung Khảo

0 nhận xét:

Đăng nhận xét