Mao Trạch Đông |
Trần Trung Đạo
Luồng gió ngoại giao đã đổi
chiều khi Tổng Thống Mỹ
Richard Nixon bắt tay với Mao ngày 21 tháng Hai 1972. Chuyến viếng thăm Trung Cộng của
Nixon nhắm vào 3 mục đích: (1) hướng tới một giải pháp hòa bình tại Đài Loan,
(2) tìm một giải pháp hòa bình cho chiến tranh Việt Nam qua đàm phán và (3) giảm ảnh
hưởng của Liên Xô. Như lịch sử đã chứng minh, ít nhất hai trong số ba mục đích
của TT Richard Nixon đều không đạt được. Chỉ riêng vấn đề Việt Nam, chiến tranh không chấm dứt bằng
giải pháp hòa bình mà bằng máu cho đến ngày 30-4-1975.
Sự gần gũi giữa Mỹ và
Trung Cộng đã đẩy Việt Nam nghiêng xa hơn về phía Liên Xô. Bắc Việt
cho rằng Trung Cộng đã phản bội đảng CSVN khi đặt mối quan hệ giữa Trung Cộng
và Mỹ lên trên quyền lợi của Bắc Việt. Xuân Thủy, trưởng phái đoàn đàm phán
của Bắc Việt, tố cáo Mỹ “âm mưu chia rẽ khối xã hội chủ nghĩa”. Khoảng cách giữa
Bắc Việt và Trung Cộng xa cách dần mặc dù Trung Cộng tuyên bố vẫn tiếp tục “ủng hộ cuộc chiến chống Mỹ đến mục đích cuối
cùng”.
Chủ trương
chiếm Hoàng Sa
trước khi chiến tranh chấm
dứt
Sau khi hiệp định Paris
được ký kết, quan hệ giữa CS Bắc Việt
và Trung Cộng trở nên tệ hại hơn. Học bài học tranh chấp biên giới với Liên Xô
phía Bắc và phát xuất từ mối lo sợ bị bao vây ở phía Nam, Mao nghĩ đến việc phải tiến chiếm các đảo ngoài Biển Đông
trước khi CS Bắc Việt chiếm toàn bộ Việt Nam và rơi hoàn toàn vào quỹ đạo của Liên
Xô, lúc đó là kẻ thù số một của Trung Cộng. Mao càng lo lắng hơn khi thấy chính
sách của Mỹ ngày càng trở lại với chủ trương tự cô lập (American Isolationism)
trước đây trong lúc Liên Xô ngày càng mở rộng và có khả năng lấn chiếm sang Châu Á.
Ngoài lý do lãnh thổ, việc
tiến chiếm Hoàng Sa là một bước
thay đổi quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mao, chuyển từ giai đoạn đấu
tranh cách mạng dựa trên quan điểm Marx-Lenin-Mao sang thực tế quốc tế. Để thực thi các chính
sách này, Mao cần một lãnh đạo có đầu óc thực dụng, và người đó không ai khác
hơn là Đặng Tiểu Bình. Ngày 22 tháng 12, 1973, Mao phục hồi họ Đặng.
Mặc dù già nua, bệnh hoạn,
chủ trương “phục hồi các lãnh thổ Trung Quốc bị mất” là chủ trương của
Mao.
Đặng Tiểu Bình đóng vai
trò tích cực nhưng y chỉ mới được phục hồi chưa đầy một tháng sau sáu năm bị hạ
bệ. Chu Ân Lai chủ tọa nhiều phiên họp của Bộ Chính Trị nhưng trong thời gian đó họ
Chu đang bị kết án hữu khuynh. Diệp Kiếm Anh được giao trách nhiệm
chủ tịch của ủy ban nhưng họ Diệp đã 77 tuổi và thuộc thành phần tướng lãnh thời
Vạn Lý Trường Chinh.
Tháng Giêng 1974, Mao quyết định tiến chiếm Hoàng Sa trước. Kế hoạch chiếm Hoàng Sa được nghiên cứu
rất kỹ lưỡng và chi tiết, không chỉ về mặt quân sự mà cả chuẩn bị dư luận quốc tế để biện hộ cho hành động
xâm lược Việt Nam.
Về mặt đối ngoại. Để có lý do tấn công
Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tố cáo Việt
Nam Cộng Hòa vào tháng 11, 1973 đã bắt giữ tàu đánh cá Trung Cộng và hành động
đó được xem như vi phạm chủ quyền Trung Cộng, buộc Trung Cộng phải “phản công tự vệ”.
Ngày 11 tháng Giêng 1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng ra thông báo xác định chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa
và vùng biển chung quanh quần đảo này: “Các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một phần của lãnh thổ
Trung Quốc. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối
với những hòn đảo này”.
Về mặt tổ chức. Một ủy ban đặc nhiệm của
các lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng và nhà nước Trung Cộng được thành lập để
phát thảo kế hoạch tiến chiếm Hoàng Sa được thành lập
trong phiên họp của Bộ Chính Trị do Chu Ân Lai chủ tọa. Năm Ủy viên Bộ Chính Trị
trong ủy ban gồm Thống Chế Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying), Phó Chủ Tịch Trung Ương Đảng Vương Hồng
Văn (Wang Hongwen), Ủy Viên Thường Trực Bộ Chính Trị phụ trách tuyên truyền Trương Xuân Kiều (Zhang Chunqiao), Phó
Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) và Đại Tướng Tư Lệnh Quân Khu Bắc Kinh
Trần Tích Liên (Chen Xilian). Chu Ân Lai giao cho Diệp Kiếm Anh trách nhiệm điều hành ủy ban.
Mao phê chuẩn thành phần ủy
ban.
Một phiên họp mở rộng sau
đó, ngoài Chu Ân Lai và năm thành viên còn có sự tham dự của Đô Đốc Tô Chấn Hoa
(Su Zhenhua), Chính Ủy Thứ Nhất của Hải Quân Trung Cộng. Tô Chấn Hoa là một
trong những tướng hải quân có quan hệ mật thiết với Đặng Tiểu Bình và
cũng là người chủ trương bành trướng Biển Đông.
Với một thành phần lãnh đạo
chiến dịch cao cấp và đầy đủ
ban bộ như vậy chứng tỏ việc tiến chiếm Hoàng Sa không chỉ là một tranh chấp biển đảo bình thường
mà còn mang một ý nghĩa chiến lược hàng đầu và phải chiếm Hoàng Sa bằng mọi
giá.
Về mặt quân sự. Đây là lần đầu tiên hải
quân Trung Cộng thực hiện một cuộc viễn chinh hải quân chống lại nước ngoài và
lực lượng tham chiến được chọn lựa kết sức cẩn thận. Bốn ngày
sau khi Trung Cộng tuyên bố chủ quyền, 11 chiến hạm của hải quân Trung
Cộng và 600 lính được lệnh tiến vào vị trí. Các phi đoàn chiến đấu cơ đặt trên đảo Hải
Nam được lệnh sẵn sàng tham chiến. Đặng Tiểu Bình trong thời gian này vừa được giao phó
chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và thay mặt ủy
ban điều hợp các hoạt động của
Quân Ủy Trung Ương cũng như các vấn đề quân sự khẩn cấp. Bộ Tư lệnh Hạm Đội Nam Hải
dưới quyền Tư lệnh Zhang Yuanpei
trực tiếp chịu trách nhiệm tiến chiếm Hoàng Sa.
Kế hoạch được đệ trình lên
Mao và Mao chấp thuận.
Ngày 19 tháng Giêng 1974,
Hải Quân Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Sau trận hải chiến khoảng một giờ, Trung Cộng
chiếm Hoàng Sa. Phía Trung Cộng
công bố họ chỉ có 18 binh sĩ thiệt mạng và không có tàu nào chìm mặc dù báo chí
Tây Phương cho rằng ít nhất một chiến hạm của hải quân Trung Cộng đã bị bắn chìm.
Người viết không trình bày chi tiết ở đây vì diễn biến của hải chiến Hoàng Sa đã được rất
nhiều tài liệu và nghiên cứu
Việt Nam cũng như quốc tế công bố. Rất nhiều thông tin quý giá đang
được lưu trữ tại website hqvnch.org.
Thái độ
bàng quan của Mỹ
Chính phủ Mỹ ra lệnh Đệ
Thất Hạm Đội không được can thiệp vì đã đồng ý ngầm với Trung Cộng sẽ giữ thái
độ bàng quan trong tranh chấp Hoàng Sa, và các chiến hạm và phi cơ của Mỹ sẽ
không xâm phạm giới hạn 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa. Cam kết này của Mỹ đã được Ngoại
Trưởng Trung Cộng Hoàng Hoa nhắc lại trong diễn văn đọc trước Liên Hiệp Quốc
ngày 12 tháng Tư 1972 với sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry
Kissinger.
Bản tin của báo Time ngày
4 tháng Hai 1974 cũng xác định chính sách của Mỹ trong hải chiến Hoàng Sa là “tuyệt đối
khoanh tay”.
Ngoài ra, trước đó vào
mùa xuân 1972, Trung Cộng đã thử ý định Mỹ bằng cách gởi công hàm phản đối khi
một tàu chiến Mỹ vi phạm khu vực 12 hải
lý của quần đảo Hoàng Sa. Mỹ đáp ứng bằng việc chỉ thị hải quân Mỹ sẽ không hải
hành trong khu vực 12 hải lý do Trung Cộng quy định. Thái độ đó của Mỹ là dấu
hiệu cho Trung Cộng biết Mỹ sẽ không can dự vào tranh chấp Hoàng Sa.
Tại sao
Trung Cộng chọn ngày 19 tháng Giêng 1974?
Ngày 19 tháng Giêng 1974
là ngày kỷ niệm 24 năm Trung Cộng công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đây
không phải là sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên mà là một cái tát chính trị vào mặt
đảng CSVN.
Tối ngày 20 tháng Giêng,
Chu Ân Lai triệu tập phiên họp để tổng kết thành quả chiến dịch, và ngay sau phiên
họp y đã trình chiến thắng lên Mao. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị sáp nhập
vào địa phận tỉnh Quảng Đông. Các báo đảng và nhà nước Trung Cộng sau đó đã
tung hô “chiến thắng vĩ đại của Mao Chủ
tịch trên biển”.
Về phía CSVN, ngoài tuyên bố
ba điểm chung chung giống như người ngoài cuộc của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời
Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” ngày 26
tháng Tư 1974, các lãnh đạo CS Bắc Việt không có một lời phản đối nào trước
hành động xâm lăng của Trung Cộng. Khi đất nước bị xâm lăng, những kẻ chọn thái
độ im lặng cũng chẳng khác gì chọn đứng về phía xâm lăng.
Bài học lịch sử từ hải
chiến Hoàng Sa
- Đừng trông cậy vào ngoại
viện: Trong tổng kết mới nhất The U.S. China
Military Scorecard 1996-2017 của RAND Corporation, tuy Trung Cộng đạt nhiều tiến bộ trong hơn 30 năm hiện
đại hóa, kỹ thuật chiến tranh của Mỹ vẫn còn dẫn trước rất xa. Ngay cả trong vũ
khí nguyên tử, tỉ lệ giữa Mỹ so với Trung Cộng là 13 trên 1. Nghĩa là, dù bắn
trước, Trung Cộng vẫn sẽ phải bị Mỹ đánh trả bằng bom nguyên tử nhiều lần.
Tuy nhiên, sự vượt trội kỹ
thuật chiến tranh không có nghĩa Mỹ
sẽ can thiệp vào xung đột Biển Đông nếu Việt Nam bị Trung Cộng tấn công lần nữa. Vì
các lý do kinh tế, Mỹ có thể làm ngơ như họ đã từng làm ngơ vì lý do chính
trị trong hải chiến Hoàng Sa 1974. Bài học của hai cuộc thế chiến cho thấy Mỹ chỉ tham
chiến khi quyền lợi của họ bị va chạm
trực tiếp và phải có lợi về đường dài. Không nên
trách ai cả. Một con người hay một quốc gia cũng thế, phải tự đứng lên bằng
đôi chân của chính mình trước khi trông cậy vào sự giúp đỡ của người
khác.
- Dân chủ hóa hay mất nước: Tham vọng bành trướng
trên Biển Đông của Trung Cộng quá rõ ràng và lộ liễu. Mặc dù có các áp lực quốc
tế, không có dấu hiệu gì
cho thấy Trung Cộng sẽ từ bỏ tham vọng chiếm đoạt Biển Đông. Chủ
trương gặm nhấm Biển Đông của Trung Cộng đang được tiến hành từng bước và chúng
hy vọng đến mức độ nào đó sẽ đặt Mỹ
và cả thế giới vào thế đã rồi. Trung Cộng đã nuốt
vô thì chỉ có cách mổ bụng chúng mới lấy ra được.
Để tránh đại họa mất nước,
chọn lựa duy nhất của Việt Nam hiện nay là dân chủ hóa và phải dân chủ hóa gấp.
Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại
nhằm tạo sự tin cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương, nhưng quan trọng nhất là nền tảng của đoàn kết dân tộc và thăng tiến đất nước. Một dân tộc
chia rẽ không thắng được Trung Cộng. Dân chủ là đôi cánh giúp đất nước có thể cất
cao lên cùng thời đại. Đó không phải là lý thuyết mà là thực tế chính trị đang được hầu
hết các quốc gia áp dụng. Mục
tiêu đầu tiên và quan trọng nhất trong tiến trình dân chủ hóa là
tháo gỡ cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài CS hiện nay.
- Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc
gia để khỏi bị “Phần Lan Hóa” (Finlandization): Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô cho
phép Phần Lan được duy trì cơ chế dân chủ trong khi khống chế mọi chính sách đối nội
và đối ngoại đi ngược với quyền lợi của Liên Xô. Phần Lan không có chọn lựa nào khác vì
không nằm trong vị trí chiến lược.
Khác với trường hợp Phần
Lan, một Việt Nam dân chủ có khả năng thoát ra khỏi khả năng bị “Phần Lan Hóa”,
đưa đất nước vào vị trí chiến lược quốc tế và chủ động làm cho quốc tế quan tâm.
Chủ trương hiện nay của
lãnh đạo CSVN “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự
của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và
không dựa vào nước này để chống nước kia” là chủ trương tự sát, không đúng về lý thuyết lẫn thực tế chính trị. Chủ trương
này là bản sao chính sách đối ngoại của Trung Cộng nhưng khác ở điểm Trung Cộng
chỉ tuyên bố để tuyên truyền chứ không bao giờ áp dụng.
Kết luận
Robert D. Kaplan, nhà
nghiên cứu chính trị quốc tế nổi tiếng và đã được tạp chí The Policy hai lần xếp vào danh sách 100 nhà
tư duy hàng đầu của thế giới (“Top 100 Global Thinkers”), cho rằng Trung Cộng có
khả năng cao sẽ “Phần Lan Hóa” Việt Nam.
“Phần Lan Hóa” là một loại
chủ nghĩa thực dân trong thời đại toàn cầu. Chủ trương này ít tốn kém vì các quốc
gia bị “Phần Lan Hóa” được phép duy trì độc lập trên danh nghĩa nhưng chính
sách đối ngoại sẽ được soạn thảo tại Bắc Kinh. Trung Quốc làm như vậy để vừa
thúc đẩy nền kinh tế đang tiến rất chậm và đồng thời
cũng để giảm áp lực chống đối từ trong nước qua việc đề cao chủ nghĩa dân tộc.
Công thức mà Trung Cộng đang sử dụng không có gì mới và mô hình phát triển hiện
nay của Trung Cộng cũng không phải là một loại mô hình ngoại lệ (Chinese
exceptionism) như một số lý thuyết gia của đảng CSTQ đang dùng để kết luận Trung Cộng sẽ
không sụp đổ.
Một thành phần có ảnh hưởng
trực tiếp vào sự thay đổi cơ chế chính trị nhưng Robert
D. Kaplan không đưa vào phân tích của ông, đó là nhân dân, tức là thành phần những
người dân của một quốc gia có ý thức cao về quyền hạn và trách nhiệm phải
thực thi đối với đất nước.
Trong thực tế cách mạng dân chủ, đóng
góp của nhân dân là yếu tố âm thầm nhưng quyết định, tiềm tàng nhưng vô cùng mạnh
mẽ như đã chứng tỏ tại nhiều quốc gia Đông Âu, Phi Châu, và tại Liên Xô cũ. Tại Việt
Nam, yếu tố nhân dân còn giới hạn,
chưa tập trung, thiếu tổ chức nhưng đã có và đang trên đà phát triển. Những hạt
giống đã được gieo xuống. Mỗi người Việt, mỗi tổ chức, đoàn thể trong điều kiện và phương tiện sẵn
có của mình nên tập trung chăm bón.
03.01.2016
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
- Yang Kuisong (2002).
Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow
Wilson International Center for Scholars.
- Bruce A. Elleman and
S.C.M. Paine (2011). Naval Power and Expeditionary Warfare: Peripheral
Campaigns and New Theatres of Navy Warfare. Taylor and Francis Group.
- Qiang Zhai (2002).
China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
- Dr. Stein Tonnesson
(2001, July). The Paracels: The “other” South China Sea Dispute, Paper
presented at the South China Sea Panel, International Studies Association, Hong
Kong Convention.
- Eric Heginbotham
(2015). The U.S. China Military Scorecard 1996-2017, RAND Corporation.
- Paracel (Xisha) Islands
– 1974, globalsecurity.org.
- David Brown (2014, May
22). Vietnam Faces “Finlandization” from China. Asia Sentinel.
- Larry M. Wortzel, Robin
D. S. Higham (1999). Dictionary of Contemporary Chinese Military History.
Greenwood Press.
- The World: Storm in the
China Sea. Time, Feb. 04, 1974.
- Robert D. Kaplan. The
South China Sea is to China what the Greater Caribbean was to the United
States, The Globe and Mail, June 19, 2015.
- John W. Garver. Chinas
Quest: The History of the Foreign Relations of the Peoples Republic. pp.
324-325. Oxford University Press.
- Lai To Lee (1999).
China and the South China Sea Dialogues, pp13-14. Praeger, London.
- Bill Hayton (2014). The
South China Sea: The Struggle for Power in Asia, Yale University Press.
- hqvnch.org (Trang sưu tầm
tài liệu lịch sử Hải Quân VNCH).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét