Ngày 30-4-1975, một ngày kinh hoàng nhất
đối với đa số người dân miền nam nước Việt, khi họ thấy xe tăng và bộ đội Cộng
Sản tràn vào tiếp thu Sài Gòn, ai nấy mường tượng ra một tương lai đen tối mù
mịt sẽ diễn ra tại mảnh đất này: đói khổ, thóc cao gạo kém, mất tự do, sưu cao
thuế nặng, bị trả thù, lưu đầy…. Mặc dù cũng là người Việt Nam máu đỏ da vàng
nhưng người Sài gòn chỉ biết đây là những người ngọai lai, xâm lược, họ biết
rằng đất nước của mình đã bị đạo quân từ bên ngoài tới chiếm
đóng.
Từ sau 1954, Việt Nam chia ra làm hai
nước, một nước ở phía trên vĩ tuyến 17, hay trên sông Bến Hải và một nước ở dưới
vĩ tuyến và dòng sông nhỏ này. Từ những năm đầu thập niên đã diễn ra cuộc chiến
tranh giữa hai nước: miền Bắc được Cộng sản quốc tế trợ giúp vũ khí đạn dược đã
mở cuộc chiến tranh dưới danh nghĩa “giải phóng” chiếm cho được vựa lúa miền Nam
để cứu đói miền Bắc đã và đang thiếu thốn thực phẩm, lúa gạo trầm trọng. Cuộc
chiến mở rộng bắt đầu từ 1964, 1965 khi miền Bắc công khai đưa quân vào miền Nam
để chiếm cho được mảnh đất phì nhiêu béo bở này. Tình hình chiến sự trở nên tàn
khốc trong khoảng 10 năm từ 1965 cho tới 1975, đó là cuộc chiến giữa một nước
nghèo đói lạc hậu miền Bắc VN và một nước sung túc tiến bộ ở miền Nam VN. Miền
Bắc có ưu thế ở chỗ họ được CS quốc tế viện trợ vũ khí dồi dào, vô hạn định và
một dân số đông đúc, họ có cơ hội thuận tiện để đẩy hàng triệu thanh niên vào
cuộc chiến.
Mặc dù bị thiệt hại nặng nề nhiều trăm
ngàn người trong những năm giữa và cuối thập niên 60, nhưng miền Bắc vẫn tiếp
tục cuộc phiêu lưu, họ có ưu thế của kẻ nghèo đói không sợ chết, dù tổn thất bao
nhiêu cũng không đáng kể miễn là chiếm được vựa lúa miền Nam VN. Sau khi nướng
hơn một triệu thanh niên họ đã đạt được mục tiêu, chinh phục được miền Nam sung
túc.
Khi mới vào tiếp thu Sài gòn họ nói “Đế
quốc Mỹ bại trận, dân tộc ta là kẻ chiến thắng”, miệng nói hòa giải dân tộc
nhưng trên thực tế sau khi thắng trận họ đã thỏa thuê mãn nguyện tha hồ mà vơ
vét, chiếm đoạt nhà cửa, ruộng đất, quí kim, hàng hóa… Cựu đảng viên Cộng Sản
Bùi Tín đã gọi đây là một cuộc ăn cướp vĩ đại. Nhà cửa, tài sản của dân di tản
đương nhiên thuộc về quân chiếm đóng dù họ còn thân nhân ruột thịt, tất cả những
nhà lớn đều thuộc về quân chiếm đóng, chủ nhà phải dọn đi ở những căn nhà nhỏ lý
do phó thường dân không được quyền ở những nhà rộng lớn, cao
tầng.
Có người nói đây là cuộc chiến tranh ý
thức hệ giữa Tư bản và Cộng Sản, người cho đây là cuộc chiến chống Đế Quốc xâm
lược, người nói đây là cuộc chiến tranh ủy nhiệm, hai miền Nam Bắc đã được các
siêu cường uỷ nhiệm, nhưng sự thực đã quá rõ ràng, nó chỉ là một cuộc “chiến
tranh ăn cướp” giữa một nước nghèo đói lạc hậu và một đất nước giầu có tân tiến.
Nước nghèo ra sức đánh thí mạng để cướp của cải vật chất bên kia, để chiếm cho
được mảnh đất phì nhiêu rồi tha hồ mà vơ vét, bóc lột… Nước nghèo đói chỉ biết
lấy lưỡi lê và họng súng để theo đuổi cuộc chiến tranh ăn cướp lâu dài, họ chủ
trương chính quyền đẻ ra từ họng súng.
Khi chiếm được miền Nam, “cán bộ” Cộng Sản
tươi cười với đồng bào nói nào hoà bình thống nhất rồi, nào hai miền cùng xoá bỏ
hận thù và cùng nhau xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh. Thế
nhưng họ không bao giờ bỏ được bản chất gian trá có từ hồi mới cướp chính quyền
mùa thu 1945, chiếm xong Sài Gòn hoa lệ, đạo quân chiến thắng vội vã chở hết
vàng bạc, quí kim của ngân hàng, tháo gỡ các máy móc trong các cơ xưởng, bệnh
viện, vét hết các kho dụng cụ, hàng hoá, máy móc hiện đại….chở ra Bắc. Số vàng
bạc quí kim vơ vét được vào túi các quan cán bộ gộc hết, họ vơ vét nhanh gọn y
như đàn cào cào châu chấu phá hoại mùa màng, sau cơn trấn lột tập thể vĩ đại ấy
miền Nam chỉ còn là một mảnh đất nghèo xơ xác. Thực tế chứng tỏ tại châu Âu,
nước Đức sau khi thống nhất, Đông Đức đã trở thành gánh nặng cho Tây Đức, họ gồm
hàng tá khuyết điểm: lười biếng, gian trá, lạc hậu, ngu xuẩn… và tình hình Việt
Nam cũng y hệt như thế, miền Bắc đã dựa hẳn vào miền Nam để
sống.
Đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế
mới
Chuẩn bị đi vào các trại tù “cải
tạo”
Một hai năm sau ngày 30-4-75 Cộng Sản đánh
tư sản hai lần để lấy nhà cho cán bộ, đổi tiền ba lần, chính quyền đã vét cạn
sạch túi tiền người dân, kế đó họ phát động chiến dịch đẩy dân chúng đi kinh tế
mới để dãn dân ra khỏi thành thị ngõ hầu có chỗ đưa dân từ miền Bắc vào. Kế
hoạch chiếm nhà dân đã được kẻ chiến thắng hoạch định một cách tinh vi khoa học.
Những người đi vượt biên dù thoát hay không thoát đều bị lấy nhà, những nhà lớn,
nhà mặt đường của dân cải tạo liên hệ chế độ cũ hầu hết bị tịch thu, họ lấy tất
cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức. Sau ngày 30-4-75 một hai
tháng, họ lùa các viên chức, sĩ quan chế độ cũ vào các trại cải tạo lâu dài rồi
đẩy miền Nam tới chỗ nghèo nàn cùng cực để không thể trỗi dậy chống lại họ.
Người Sài Gòn mỗi ngày một nghèo, nhiều người phải bán nhà với giá rẻ mạt cho kẻ
chiến thắng để lấy tiền đong gạo sống qua ngày. Cán bộ cao cấp từ miền Bắc kéo
nhau vào Nam chiếm nhà của kẻ bại trận, cán bộ lớn chiếm nhà lớn, cán bộ nhỏ
chiếm nhà nhỏ rồi tha hồ mà vơ vét cho đầy túi tham.
Thấm thoát đã 39 năm trôi qua, đời sống
kinh tế miền Nam ngày nay cao hơn những năm thập niên 80, 90 rất nhiều nhờ Hoa
Kỳ bãi bỏ cấm vận và nhờ các nước giầu Đài Loan, Hoa Kỳ, Tây Âu, Đại Hàn,
Nhật…vào đầu tư cộng với tiền đô la của Việt kiều ở ngọai quốc gửi về dồi dào.
Đời sống có khá hơn xưa nhưng cái hố chênh lệch giầu nghèo lại sâu gấp bội lần
tình trạng xã hội trước 1975. Trong khi những bà mẹ nghèo khổ tay bế con, tay
bán vé số thì những đảng viên quyền thế có cơ ngơi, nhà mặt đường, trong nhà lúc
nào cũng có cả triệu đô la tiền mặt, mấy nghìn lượng vàng. Các quan to tỉnh ủy,
ủy viên trung ương đảng đã thành phú gia địch quốc có khách sạn, nhà hàng, đất
đai, cơ sở thương mại, sản xuất….tài sản của họ có thể lên tới hàng trăm triệu
đô la hoặc hơn thế. Nhiều người khi mới vào Nam chỉ mang theo có một manh chiếu
rách nay đã trở thành những triệu phú đô la, xe ngựa nghênh
ngang.
Nay người nghèo tại các tỉnh đổ xô lên Sài
gòn và các thành phố lớn làm công nhân, họ chen chúc nhau thuê phòng trọ, hàng
chục người một phòng nhỏ xíu với mức lương thấp 100 đô la hàng tháng, sau khi
trả tiền phòng, tiền ăn họ chẳng còn dư đồng nào, những người cùng khổ này làm
lụng vất vả nhưng chỉ đủ bỏ vào mồm. Đời sống thành thị tương đối còn khá, tại
miền quê người dân lam lũ vật lộn với cuộc sống đắt đỏ, một hiện tượng phổ thông
tại các nước kém mở mang, người nghèo ngày càng khốn khổ, người giầu ngày càng
giầu thêm.
Mặc dù mức sống đã được nâng cao nhưng gần
đây Thủ tướng CSVN nhìn nhận Việt Nam vẫn là một nước nghèo, thật vậy lợi tức
đầu người VN nay vào khỏang 1,000 đô la một năm, trên thực tế chỉ bằng một nửa,
hoặc một phần ba của các nước Phi châu như Ai cập, Lybia, Tunisie… nếu so với
các nước láng giềng tại Đông Nam Á thì VN còn thua xa hơn
nữa.
Bắt học sinh xuống
đường “bài trừ văn hóa phản động”
Một thanh niên bị bắt đeo bảng trước ngực và đi lòng vòng
địa phương nơi cư trú,
dưới sự giám sát của bộ đội cụ Hồ. Tội danh : Nhảy đầm.
Sau đó còn phải thọ án 1 năm trong “trại cải tạo”.
“Tòa án nhân dân”
Nay người miền Bắc kéo vào Sài Gòn và các
thành phố lớn tại miền Nam rất đông, họ là những người giầu có và quyền thế nhất
Sài Gòn hiện nay, làm chủ hầu hết các nhà cửa to lớn của Sài Gòn và các nhà hàng
lớn, các cơ sở thương mại, các cơ quan nhà nước… Họ là những cán bộ cao cấp và
bà con thân thuộc được đưa vào đây để tranh dành hết những chức vụ béo bở, những
công việc hái ra tiền. Tại các cửa hàng lớn, các cơ quan chỗ nào cũng thấy toàn
là Bắc Kỳ, đó là giai cấp giầu có thống trị tại Sài Gòn hiện nay. Kẻ chiến thắng
lấy đi tất cả, Winner takes it all, họ hưởng đủ tất cả lạc thú trên đời, biệt
thự, xe hơi, rượu ngon, gái đẹp… không còn thiếu thứ
gì.
Cho tới nay bộ mặt đổi đời của miền Nam
càng lộ rõ hơn bao giờ hết bộ, kẻ thắng trận ngày càng giầu có, vơ vét, tập
trung tài sản của nhân dân vào trong tay, bà con của họ cũng được chia chác
những chức vụ béo bở, cơ sở làm ăn lớn tha hồ mà đớp hít… trong khi ấy người dân
miền Nam, những kẻ bại trận ngày càng khốn khổ, trừ những người có thân nhân ở
nước ngoài trợ giúp, đa số phải làm lụng đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo.
Người miền Bắc nay đã trở thành giai cấp thống trị người miền Nam, họ tước đoạt
tài sản nhà cửa của người miền Nam, đuổi người miền Nam đi các vùng kinh tế xa
xôi khỉ ho cò gáy. Những kẻ bị áp bức bóc lột đành ngậm đắng nuốt cay, chịu
khuất phục trước lưỡi lê và họng súng của đạo quân chiến
thắng.
Đã một phần ba thế kỷ trôi qua, người miền
Nam ngày nay dù là lớp người cũ hay lớp trẻ em sinh sau đẻ muộn vẫn nhìn chính
quyền CS, nhìn người miền Bắc như đạo quân chiếm đóng, như bọn xâm lăng đã tước
đọat tài sản, quyền sống của họ. Dù nói cùng một thứ tiếng, viết cùng một văn tự
nhưng không hẳn phải là một quốc gia, thời xa xưa, Xuân thu, Chiến Quốc, thời
Tam Quốc nước Tầu đã chia làm nhiều nước Tần, Sở, Yên, Ngô… và bây giờ Bắc Hàn,
Nam Hàn cũng là hai quốc gia riêng biệt, châu Mỹ La Tinh cùng nói tiếng Tây Ban
Nha, Trung Đông cùng nói tiêng Ả Rập nhưng đã chia làm mấy chục nước. Người miền
Nam VN xa xưa không muốn thống nhất với miền Bắc cũng như Nam Hàn hiện nay không
muốn thống nhất với Bắc Hàn lý do nước tân tiến sung túc không muốn mang cái
gánh nặng lạc hậu trên vai.
Nay CS đưa ra luận điệu ru ngủ dân miền
nam như: “hãy để Việt Nam Cộng Hòa lùi vào quá khứ, hãy quên đi lá cờ vàng,
chúng ta hãy bắt tay nhau cùng xây dựng lại những vết thương do chiến tranh để
lại, cùng nhau xoá bỏ hận thù”; nhưng người miền Nam lớp già cũng như lớp trẻ
vẫn tiếc nhớ đất nước của họ, tiếc những cái họ đã mất từ bao năm
qua:
Tự do. Cái mất mát lớn nhất của người miền Nam phía dưới vĩ tuyến 17 là mất tự do, trước hết là tự do ngôn luận, thời xa xưa tại nước Việt Nam Cộng Hòa… báo chí được quyền chỉ trích sai trái của chính phủ, người dân được nói cái mình muốn nói, được biểu lộ sự phản kháng, biểu tình chống chính phủ, được thành lập đảng phái đối lập, được tự do hội họp. Người dân được quyền tự do tư tưởng, được đọc và viết điều mình muốn, sách báo không bị kiểm duyệt hoặc chỉ bị kiểm duyệt hạn chế, người dân được đọc sách báo nhập từ ngọai quốc trái với tình trạng ngày nay, sách báo hải ngọai gửi về bị vất vào thùng rác. Người dân VNCH được tự do cư trú, muốn ở đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi nhưng nay họ phải chịu chỉ định cư trú, theo chế độ hộ khẩu, bị chính quyền địa phương giám sát, theo dõi nghiêm ngặt. Từ mấy chục năm nay quân chiếm đóng đã tước đọat hết mọi quyền tự do của người dân miền nam nước Việt.
Tự do. Cái mất mát lớn nhất của người miền Nam phía dưới vĩ tuyến 17 là mất tự do, trước hết là tự do ngôn luận, thời xa xưa tại nước Việt Nam Cộng Hòa… báo chí được quyền chỉ trích sai trái của chính phủ, người dân được nói cái mình muốn nói, được biểu lộ sự phản kháng, biểu tình chống chính phủ, được thành lập đảng phái đối lập, được tự do hội họp. Người dân được quyền tự do tư tưởng, được đọc và viết điều mình muốn, sách báo không bị kiểm duyệt hoặc chỉ bị kiểm duyệt hạn chế, người dân được đọc sách báo nhập từ ngọai quốc trái với tình trạng ngày nay, sách báo hải ngọai gửi về bị vất vào thùng rác. Người dân VNCH được tự do cư trú, muốn ở đâu thì ở, muốn đi đâu thì đi nhưng nay họ phải chịu chỉ định cư trú, theo chế độ hộ khẩu, bị chính quyền địa phương giám sát, theo dõi nghiêm ngặt. Từ mấy chục năm nay quân chiếm đóng đã tước đọat hết mọi quyền tự do của người dân miền nam nước Việt.
Luật pháp. Người dân VNCH đã được luật
pháp bảo vệ tài sản tính mạng, có tòa án, có luật sư bào chữa, người dân chỉ bị
bắt giam tối đa 24 giờ đồng hồ nếu không có bằng cớ phạm pháp, nay họ có thể bị
công an nhà nước bắt giam vì bất cứ lý do gì hoặc chỉ là tình nghi. Họ có thể bị
giam giữ vô thời hạn mà không cần đưa ra tòa xét xử, phải có án, người dân có
thể bị chính quyền, bị kẻ thống trị cướp đoạt đất đai tài sản mà không thưa kiện
ai được. Sau 30-4-1975, trại tập trung, nhà giam mọc lên như nấm tại miền Nam,
hàng trăm ngàn người bị lùa vào trai tù dưới danh nghĩa cải tạo mà không hề được
xét xử, họ bị giam giữ lâu dài có người lên tới mười mấy năm trời. Sống trong xã
hội áp dụng luật rừng hiện nay, người miền Nam ai cũng nơm nớp lo sợ, họ có thể
bị bắt bất cứ lúc nào không có lý do, chỉ một sự tình nghi hoặc tư thù với cán
bộ có thể bị giam giữ lâu dài.
Đạo đức. Người dân miền Nam nay tiếc nhớ xã hội có kỷ cương đạo lý của VNCH ngày xưa, trước 1975, miền nam là một xã hội có tổ chức nghiêm chỉnh, chịu ảnh hưởng sâu xa của giáo lý Khổng Mạnh, con người có nhân phẩm, gia đình và học đường giáo dục đạo đức luân lý cho con em để trở thành con người tốt của xã hội. Nay thì khác hẳn, xã hội đương thời sô bồ, băng hoại phản đạo đức luân lý, phim ảnh khiêu dâm đồi bại lan tràn, đĩ điếm, bia ôm, đầy rẫy cả thôn quê thành thị, con gái bị bán đi làm đĩ khắp nơi. Con người ngày nay chỉ biết có đồng tiền, lửa đảo, lưu manh trộm cướp, băng đảng lộng hành, trẻ nít chửi thề tục tĩu ngay tại học đường, tham nhũng hối lộ từ trên xuống dưới, có người nói giả thử chế độ CSVN sụp đổ, người ta phải mất ít nhất là ba thế hệ mới xây dựng được xã hội lành mạnh như xưa.
Đạo đức. Người dân miền Nam nay tiếc nhớ xã hội có kỷ cương đạo lý của VNCH ngày xưa, trước 1975, miền nam là một xã hội có tổ chức nghiêm chỉnh, chịu ảnh hưởng sâu xa của giáo lý Khổng Mạnh, con người có nhân phẩm, gia đình và học đường giáo dục đạo đức luân lý cho con em để trở thành con người tốt của xã hội. Nay thì khác hẳn, xã hội đương thời sô bồ, băng hoại phản đạo đức luân lý, phim ảnh khiêu dâm đồi bại lan tràn, đĩ điếm, bia ôm, đầy rẫy cả thôn quê thành thị, con gái bị bán đi làm đĩ khắp nơi. Con người ngày nay chỉ biết có đồng tiền, lửa đảo, lưu manh trộm cướp, băng đảng lộng hành, trẻ nít chửi thề tục tĩu ngay tại học đường, tham nhũng hối lộ từ trên xuống dưới, có người nói giả thử chế độ CSVN sụp đổ, người ta phải mất ít nhất là ba thế hệ mới xây dựng được xã hội lành mạnh như xưa.
Tài sản. Nhiều người mất cơ mất nghiệp,
nhiều người xưa là thương gia, đại phú bị quân chiếm đóng lấy nhà tịch thu tài
sản đuổi đi vùng kinh tế mới rồi trốn về Sàigòn với tấm thân tàn ma dại. Nhiều
người khá giả có nhà lớn hoặc nhà mặt đường đi vượt biên không thoát bị quân
chiếm đóng lấy nhà nay nghèo khốn nghèo khổ tiếc nhớ thời oanh liệt xa xưa.
Những người có tài sản làm việc cho chế độ cũ phải vào trại tập trung cũng bị
chính quyền “mượn nhà” ở nay tiếc nhớ thủa vàng son của
mình….
Giáo dục, Y tế – Khoảng 1980, trong một
phiên họp nhân viên tại bệnh viên Vũng Tàu, một chị dược sĩ gốc ngoài Bắc vào đã
phát biểu:
“Chế độ Ngụy mà chúng ta đánh đổ nó nhưng
nó đào tạo các chuyên viên như kỹ sư bác sĩ giỏi hơn chúng
ta”
Thật vậy nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 đã đào tạo các
chuyên viên khoa học kỹ thuật tương đương với các nước tân tiến và đã được chính
phủ Pháp công nhận có giá trị ngang hàng. Văn bằng trung học VNCH đã theo đúng
chương trình của người Pháp, việc thi cử rất nghiêm chỉnh, văn bằng trung học,
đại học cũng đã được coi ngang hàng với văn bằng bên Pháp, việc thi cử dưới
trung học nhất là thời Đệ nhất cộng hòa thập niên 60 có phần còn khó khăn hơn ở
ngọai quốc. Nay người gốc miền Nam vẫn tiếc nhớ một thời giáo dục vàng son của
họ vì nền giáo dục hiện nay của quân chiếm đóng đã sản xuất ra một lô những văn
bằng “lèo”, thạc sĩ, tiến sĩ nhiều như lá mùa thu, các quan to Thứ trưởng, Tỉnh
ủy, huyện ủy đều có thể mua bằng tiến sĩ “ma”, thạc sĩ “lèo”, nạn bằng giả bằng
ma tại VN ngày nay không còn gì xa lạ. Học sinh từ tiểu học lên trung học, đại
học VNCH hồi xưa đều được học miễn phí, chỉ riêng bậc trung học có thêm trường
tư thu học phí, ngày nay trẻ em thất học nhiều vì không có tiền đóng học phí.
Trước 1975, nhà giầu hoặc những người có tiền khi ốm đau nặng đi bệnh viện tư,
người nghèo đã có nhà thương thí của chính phủ lo. Nay lấy danh nghĩa xã hội chủ
nghĩa để mị dân, chính quyền CS chỉ biết thu thuế, không mảy may để tâm tới phúc
lợi người dân, các bệnh viện ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi bệnh nhân phải có tiền,
không có tiền thì chịu chết, đi học, chữa bệnh phải có tiền, cái gì cũng phải
mất tiền.
Bình đẳng. Mặc dù có một số khuyết điểm nhưng VNCH
trước đây tương đối là một xã hội công bình, tuy có nạn bè phái nhưng người có
tài đức dù thân cô thế cô vẫn có cơ hội tiến thân điển hình là Giáo sư Nguyễn
Văn Bông. Xuất thân từ người con thông minh trong một gia đình nghèo tại miền
quê, Bông đã phải làm lao động thêm để lo đèn sách, lớn lên anh ta xuất dương du
học, làm bồi tầu, khuân vác cực nhọc rồi thành công vẻ vang, đậu tiến sĩ, thạc
sĩ, làm tới chức Viện trưởng một Học viện lớn, nếu sống dưới chế độ CSVN hiện
nay, tột đỉnh cuộc đời của ông ta chỉ có thể làm một thầy giáo làng quèn mà
thôi.
Từ 1975 cho tới nay, sự học hành, công ăn
việc làm chỉ con cái cán bộ, đảng viên hoặc những người từ miền Bắc vào mới được
ưu tiên, con cháu các cựu quân nhân, viên chức chế độ cũ hoặc phó thường dân Nam
bộ vẫn bị kỳ thị phân biệt đối xử nặng nề, chính quyền CS duyệt xét lý lịch
đương đơn rất kỹ. Những công việc tốt, lương cao, béo bở hái ra tiền… chỉ dành
cho các đảng viên hoặc họ hàng thân thuộc, những người từ miền Bắc vào Nam còn
những việc xương xẩu, làm chỉ đủ bỏ vào mồm mới đến tay thành phần chế độ cũ
hoặc phó thường dân Nam bộ.
Nay người dân phía dưới sông Bến Hải vẫn
tiếc nhớ một thời vàng son của miền Nam nước việt nhưng cái thời ấy nay đã chết
rồi, nó chỉ còn để lại một tiếng vang, vang bóng một thời. Quân chiếm đóng đã
tàn nhẫn bế mạc cái thời huy hoàng ấy, mặc dù họ lớn tiếng kêu gọi xóa bỏ hận
thù nhưng người miền Nam vẫn không thể quên những hành động trắng trợn của họ
tại mảnh đất này.
Quân chiếm đóng có thực sự muốn xoá bỏ hận
thù hay không? Họ xóa bỏ hay đào sâu thêm cái hố sâu hận thù đã vốn dĩ sâu thăm
thẳm từ bao năm qua? Người Việt Hải ngoại chúng ta “hòa hợp” với quân chiếm
đóng, đem tài nguyên tài năng về Việt Nam xây dựng quê hương hay là để củng cố
thêm quyền lực và tài sản cho bọn thống trị, để họ vơ vét thêm tài sản nhân dân
cho đầy túi tham và đè đầu cưỡi cổ nhân dân miền Nam thêm nhiều thế kỷ nữa?
Trước mắt chúng ta thấy cộng sản vẫn ngoan cố như tự bao giờ, trước sau như
một.
Địa vị của quân chiếm đóng, của bọn thống trị vẫn phải được củng
cố vững mạnh hơn bao giờ hết bằng lưỡi lê và họng
súng!
Trọng
Đạt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét