Ads 468x60px

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

Song Vũ, người vẫn chưa thể bước ra khỏi cuộc chiến

Đỗ Trường
Chiến tranh, binh đao khói lửa, chết chóc trên chiến trường, không phải là cái đáng sợ nhất, đối với người lính. Những trận chiến đày đọa tư tưởng tâm hồn cũng như thể xác trong lao tù sau chiến tranh, đó mới là điều ám ảnh, đáng ghê tởm nhất đối với họ. Bốn mươi năm là hai phần ba của cuộc đời đã qua đi, nhưng nỗi đau đó, nào có khác chi những mảnh pháo, viên đạn còn đang găm sâu vào từng con tim, sớ thịt. Dù họ, những người lính ấy, giờ này đang sống nơi quê nhà, hay Đức, Mỹ, Pháp…hoặc một phương trời nào đó thật bình yên. Và để xoa dịu cơn đau, bớt đi những điều ám ảnh, họ buộc phải tìm đến trang viết, bằng những bút ký, hồi tưởng ấy.   
Nếu như văn tường thuật, làm cho người đọc hiểu, biết được câu chuyện, sự việc đã diễn ra một cách chính xác nhất, thì bút ký, ngoài tái hiện lại một cách sinh động, sự việc con người, nó còn được lồng ghép tư tưởng, cũng như cảm nghĩ của chính tác giả. Vì thế, những năm gần đây, ngoài những tướng lãnh, các vị chính khách (khi trở về với cuộc sống đời thường viết), đặc biệt, còn có một loạt bút ký của các sỹ quan quân lực VNCH, công bố sau một thời gian dài bị tù tội và đã thoát ra hải ngoại, như Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, Phạm Tín An Ninh…Gần đây nhất, tôi có được đọc cuốn Sau Cơn Binh Lửa, bút ký của Song Vũ, do một người bạn vừa từ Mỹ trở về, gửi tặng. Có thể nói, đây là cuốn sách hay, lời văn sống động với những sử liệu rất chân thực.
Song Vũ sinh năm 1940 tại Hải Phòng với cái tên cúng cơm Ngô Văn Xuân. Ông là cựu sinh viên sỹ quan khóa 17 trường võ bị Đà Lạt. Dường như cuộc đời ông gắn liền với con số ba. Mười ba năm chinh chiến, với ba lần bị thương và mười ba năm tù khổ sai ở núi rừng phía Bắc, sau 1975. Đi lên từ sĩ quan trẻ, chỉ huy cấp trung đội, ông đã lăn lộn khắp các chiến trường, để trở thành một trung đoàn trưởng đầy mưu lược và can trường, ở nơi đầu sóng, khốc liệt nhất, miền Trung, cao nguyên. Những ngày tháng lửa đạn, bi thương đẫm máu và nước mắt ấy, đã găm vào linh hồn Song Vũ. Nó như một món nợ đeo đẳng day dứt cả cuộc đời ông. Để một lúc nào đó, Song Vũ đã phải cởi dần ra, đặt nó lên trang viết, trả lại món nợ đó, không chỉ riêng cho đồng đội của mình, mà dường như cho cả những người lính cùng một dòng máu, ở phía bên kia.
Truyện ký, bút ký, hồi ký là thể loại văn học mà tôi thích và luôn tìm đọc. Ngay từ thuở còn là học sinh tiểu, trung học, tôi đã say mê đọc: Một Trận Phố Ràng của Trần Đăng, Qua Sông Đón Súng của Trần Độ…thay cho những tiểu thuyết, hay truyện kiếm hiệp. Sau này, đọc hồi ký, bút ký của cựu phó thủ tướng Đoàn Duy Thành, của Tướng Trần Độ, tôi vẫn thấy sự hấp dẫn của nó. Mà hình như các tướng lãnh của quân đội miền Bắc chỉ có tướng Trần Độ viết được hồi ký? Và ông đã viết rất hay. Gần đây, tôi có đọc hồi ký của Tướng Võ Nguyên Giáp, do Hữu Mai chấp bút (viết theo lời kể lại). Tuy có nhiều người khen, nhưng thành thật mà nói, với tôi, hồi ký này, nhạt, khô rời rạc không khác gì một bài chính trị luận. Bởi nhà văn Hữu Mai không có mặt, chứng kiến những sự kiện đó, ông viết theo lời kể lại của tướng Giáp mà thôi. Vâng! Mà lời kể đôi khi lại còn tam sao thất bản, mắm muối nêm, nếm vào. Và nó như một cây gậy đã vạch sẵn, chỉ thấy rặt một điệp khúc, ta thắng địch thua. Quân ta dũng cảm kiên cường, địch quân yếu hèn nhút nhát…Do vậy, người viết thiếu cảm xúc, không có hồn cốt, máu lửa ở trong đó. Có lẽ, cả cuộc đời bác nhà văn này, chỉ có nhiệm vụ viết hồi ký cho các cụ ngồi trên?. Vậy, thành ra là thợ viết, chứ đâu còn là nhà văn nữa. Hơn nữa bác Giáp, là tướng của văn phòng, chứ không phải từ người lính trở thành tướng lĩnh, cầm quân ngoài chiến trường. Cho nên, sự thiếu sinh khí trong cuốn hồi ký là điều đương nhiên. Có một điều lạ là, bây giờ sao nhiều tướng đến thế. Có những bác, làng nhàng giữ chân tổng biên tập một tờ báo ngành, tài năng văn chương vào dạng thông tấn, thế mà phọt thẳng lên thiếu tướng, trung tướng. Tướng kiểu này, có lẽ, chỉ chia hưởng quyền lợi và cho vui mà thôi. 
Cũng như bút ký của Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, Phạm Tín An Ninh, Sau Cơn Binh Lửa của Song Vũ là tiếng nói chung tình bằng hữu, đồng đội giữa cơn binh lửa, trong cái tàn nhẫn, dã man của chiến tranh. Ngoài ra, một chút tinh ý thôi, người đọc cảm được cái hay, cái quyền biến mưu lược của người chỉ huy trong từng trận chiến, từ chính bản thân tác giả, hay các cấp cao hơn, trong bình diện chiến trường rộng lớn, mà những trang viết của Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, Phạm Tín An Ninh, dường như không tìm thấy.
Có thể nói, Sau Cơn Binh Lửa là một trong những truyện ký, tái hiện lại chiến trường một cách trung thực nhất. Song Vũ không hề giấu giếm, che đậy những tổn thất của quân đội VNCH, tất cả được đưa tuốt tuồn tuột lên trang sách. Đọc lên, tôi cứ ngỡ mình đang đứng trước một trận chiến đẫm máu vừa xảy ra vậy: “…Mùi khói của thuốc súng, các vật dụng bằng gỗ đang cháy ngún, mùi khét của da thịt người chết, mùi tanh của máu hòa quyện vào với nhau tạo nên một thứ mùi … Những xác chết nằm ngổn ngang, đủ loại binh chủng, từ nhảy dù, trung đoàn 45, biệt đông quan, pháo binh, gia đình binh sĩ, xác đặc công CS…“
Trong cái tang thương bi đát ấy, tình bạn, tình đồng đội không còn kìm sâu, giấu kín trong lòng nữa, mà nó vuột ra một cách tự nhiên, làm cho người đọc cảm thấy bùi ngùi, rớm lệ, dù cuộc chiến qua đi đã rất lâu rồi: “…Tôi nhớ Võ Thừa Tự một bạn đồng khóa Võ Bị với tôi, ôm mặt khóc nức nở, khi nhìn tôi nằm bất động, chờ tản thương, máu thẫm đầy ngực áo trong trận đánh trên kinh Một Thước Đồng Tháp năm 1965 ngày nào: Vũ ơi! Mày đừng chết nghe…(trang 162)
Tang thương chết chóc là thế, nhưng sự hồn nhiên, trong trẻo của những người lính và những người sĩ quan trẻ sau những trận đánh, hiện lên khá đậm nét trong bút ký của Song Vũ. Có lẽ, cũng chính từ những cái hồn nhiên, trong trẻo ấy, nó đã làm cho tâm trạng người đọc dịu lại hơn, giữa cái ngột ngạt của chiến tranh chăng?: “…Nhu cầu chiến trường quá lớn, lực lượng tham chiến lúc nào cũng thiếu. Thành ra có lúc chúng tôi nói đùa với nhau, chỉ có súng đạn có lúc được nghỉ, còn lính được nghỉ phép khi cuộc sống dừng lại. Một cuộc nghỉ ngơi theo đúng nghĩa…“ (trang 118)
Là người có thâm niên 13 năm, qua nhiều cấp bậc chỉ huy trực tiếp ngoài chiến trường, nên Song Vũ mở rộng được tầm nhìn hơn về chiến thuật, mưu lược, cũng như tác chiến hành quân. Những tình tiết khi ông đưa vào trang sách và giảng giải này, quả thật, mang lại cho người đọc nhiều điều tò mò và thú vị: “…Từ trên quốc lộ nhìn lên, Chu Pao  là một ngọn núi đá vách dựng gần như đứng thẳng. Cách để giải quyết mục tiêu chỉ có một: Phải chiếm được đỉnh núi này. Cái khó khăn muốn lên được đỉnh cũng chỉ có một: Phải di chuyển quân từ phía tây nam mà… bò lên. Điều ấy có nghĩa, chúng tôi bỏ mặt đường bọc vòng ra phía sau lưng, rồi dùng hỏa lực pháo và không quân yểm thật mạnh để tiến quân…“  (trang 229)
Đọc Sau Cơn Binh lửa, không chỉ hiểu thêm được những mưu tính quyền lực và những biến cố chính trị của lãnh đạo Sài Gòn lúc đó, mà ta còn thấy được sự thật đằng sau những vụ việc xuống đường của học sinh, sinh viên cũng như tôn giáo, nơi hậu phương. Tuy chỉ thoảng qua trên trang sách và không đi sâu vào phân tích, nhưng người đọc cảm được cái chính kiến rõ ràng của tác giả, trước những thị phi đó.
Và trong bài, Thấy Gì Sau Cơn Binh Lửa? Tác giả Võ Ý cho rằng: “Họ (Bắc Việt) không thắng bằng chính nghĩa, mà bằng ngu muội, dối trá và tàn độc…“. Tôi không thể đồng cảm hết với ý kiến của bác Võ Ý, vì có thế họ dối trá…còn tất cả đều ngu muội, hoàn toàn không.  Trong trận chiến huynh đệ vừa qua, người phía Bắc làm tư tưởng, chính trị giỏi hơn lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa. Nói cách khác, họ đã vẽ được cái bánh quá ngọt ngào. Và VNCH đã thua ngay trên chiếc bàn chính trị có chiếc bánh ở trên cao ấy, mà người lính không có quyền định đoạt số phận mình ở ngoài chiến trường. Về lý tưởng, tinh thần chiến đấu của người lính hai phía, tôi (không dám) không đủ khả năng so sánh, bàn bạc. Nhưng về sự đào tạo và trang thiết bị của người lính cũng như tướng lãnh sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn bộ đội miền Bắc.
Thật vậy! Chúng ta đọc đoạn văn dưới đây, để thấy được cái sự thật đó, lúc Song Vũ đang chiến đấu trên mặt trận Cao Nguyên tháng tư 1975. Ông đã phải đau đớn thốt lên, khi nhận lệnh từ Bộ tổng tham mưu, rút quân về Vũng Tầu: “… Ngoài chiến trường xương rơi, máu đổ, nhìn về phía sau lưng những trò nhố nhăng chính trị của các chính khách tứ thời sống bằng cái miệng hò hét hô hào, bôi nhọ, tranh đạt lẫn nhau…Rồi bà nọ ông kia, mua quan bán chức, sống phè phỡn trên nỗi thống khổ, sự hy sinh vô bờ bến của những người cầm súng. Bây giờ đây, trên radio, trên báo chí, trên những tin tức tác động tâm lý của địch họ thấy gì? Thấy sự đổ vỡ của các mặt trận giới tuyến, thấy sự rút chạy toán loạn khắp mọi nơi, mà phát ngôn viên quân sự đặt cho nó một cái tên mới, di tản chiến thuật…“.(trang 93)
Vâng! Dưới cái nhìn của Song Vũ, trong chiến tranh, nhân cách của tầng lớp lãnh cao nhất mà như vậy, thì chính quyền VNCH sụp đổ là điều không sớm thì muộn mà thôi.
Tôi không dám nghĩ, Sau Cơn Binh Lửa là tiếng nói chung của những người lính VNCH. Nhưng trước nhất, người đọc cảm thấy tính nhân đạo cao ngút trời trong tác phẩm này, qua ngòi bút của Song Vũ. Cái sự nhân văn cao cả ấy, có được, chỉ khi nào, con người nhận ra bản chất của chiến tranh. Do vậy, dù chỉ là một điều ước thôi, cũng làm cho ta nhiều điều phải suy ngẫm: “…Tôi vẫn tự nói với mình giá như đừng có chiến tranh…Chiến tranh làm cho mọi thứ tự giá trị bị đảo lộn. Tàn ác lươn lẹo lên ngôi và được xưng tụng. Con người nhìn nhau qua khe ngắm tới thẳng đỉnh đầu ruồi của súng ống. Cuộc đời con người vốn đã ngắn, chiến tranh càng làm cho nó ngắn thêm…“ (trang 125)
Song Vũ dành khá nhiều trang, viết về những năm tháng dài dằng dặc trong lao tù. Ước mơ trở về với cuộc sống đời thường sau chiến tranh của ông đã trở nên vô vọng. Đọc những đoạn văn này, nhiều lúc tôi phải dừng lại để đè nén cảm xúc của mình xuống, vì sự khắt khe và tàn bạo của chế độ lao tù này. Ngoài những đói rét, bệnh tật, lao động nặng nhọc người tù chịu quá nhiều áp lực về tư tưởng cũng như kỳ thị đối xử. Những câu chuyện bi hài trong lao tù, hay giữa quản giáo và tù nhân, qua ngòi bút của Song Vũ, ta cứ ngỡ đang đọc truyện châm biếm, thích đùa của Azit Nexin vậy. Trong cái bi đát đó, cho người đọc cảm giác, người tù không sống bằng sinh hóa năng lượng nữa, mà chỉ còn sống bằng nghị lực của bản thân và tình bằng hữu đồng đội mà thôi:  
“Tôi đã mất đi một nửa trọng lượng cơ thể, di chuyển phải chống gậy lê lết từng bước. Thậm chí có lúc tôi đã nghĩ, sẽ bỏ xác nơi thâm sơn khỉ ho cò gáy này. Cũng may được anh em đồng đội cưu mang đùm bọc, đặc biệt là các ông niên trưởng và các niên đệ cùng một “lò cùi“ nên cơn hoạn nạn cũng qua đi như một phép lạ. Chỉ có điều từ đấy trở đi, đầu óc tôi trở nên lộn xộn, quên nhớ thất thường và có chiều hướng suy giảm dần“. (trang 333)
Đọc Sau Cơn Binh Lửa để thấy rõ được thân phận người lính sau chiến tranh. Và nếu không có những cuộc vượt biển kinh hoàng, không có những bàn tay nhân ái của con người, với chính sách nhân đạo của Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức…thì số phận họ sẽ đi về đâu?
Nếu như văn Phan Nhật Nam sinh động, sắc sảo, của Phạm Tín An Ninh đẹp, trong sáng, thì bút ký Song Vũ lời văn bình dị, đằm thắm, như được nêm một chút gia vị thanh, ngọt đang tan dần vào lòng người đọc, giữa cái xót xa đau đớn của chiến tranh và tù tội. Với lối dẫn truyện đan xen, chồng chéo không theo một trình tự thời gian, làm bố cục lạ và hấp dẫn người đọc hơn. Tuy bút ký của Song Vũ không có nhiều những đoạn văn đẹp, lung linh tả tình, tả cảnh lồng trong cái tâm trạng của tác giả hay nhân vật như văn của Phạm Tín An Ninh. Nhưng có khá nhiều đoạn hay và truyền cảm, làm cho lòng người rung động:   
“Đất nước tôi dân tộc tôi sao cứ mãi điêu linh khốn khổ như thế? Tôi bước ra ngoài trời, nhìn về phía thành phố Pleiku, nơi ấy chỉ là một khoảng sáng vàng vọt, hắt lên từ những ngọn đèn đường thành một dải sáng chạy dài theo đường chân trời. Quay qua hướng Việt Miên, một màu đen đậm bao trùm. Nơi ấy là những đơn vị Cộng sản, đang sẵn sàng ôm súng lao thẳng vào chúng tôi…“ (trang 135-136)
Sau Cơn Binh Lửa là bút ký mở, tư tưởng suy nghĩ của Song Vũ cũng là những vấn đề mở. Người đọc, cảm thấy không bị gò ép trong cái tư tưởng dẫn dắt bởi tác giả. Điều ông đặt ra trong cuốn sách, buộc người đọc phải suy ngẫm và đưa ra ý kiến riêng của mình, mà có thể hoàn toàn trái ngược với tác giả. Đọc Song Vũ, ta không chỉ thấy được sự can trường trong chiến đấu, mà còn thấy được cái can trường trong nhận thức tư tưởng. Ông dám nhận trách nhiệm chính về sự yếu kém của bản thân (là người chỉ huy) và các cấp trên của ông dẫn đến thất bại vừa qua. Chúng ta đọc lại đoạn văn dưới đây, để thấy rõ điều đó và nó cũng như là một thông điệp, Song Vũ gửi đến người đọc trong cuốn sách này:
“… Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, phe thắng trận ít nhất cũng phải có được một yếu tố nổi bật: Một nhóm chỉ đạo chíến lược thật sự tài năng hơn kẻ thù. Từ yếu tố này sẽ mang đến những hệ quả tất nhiên – sự tổng hợp sức mạnh cần thiết để đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi sau cùng. Dân tộc Do Thái có yếu tố ấy còn chúng ta thì không. Các tướng lãnh, sĩ quan Do Thái sống chết với lính, còn hơn thế nữa, các lãnh tụ chính trị của họ đồng kham cộng khổ với dân, sẵn sàng hy sinh quyền lợi riêng tư cho lợi ích chung của đất nước. Tôi không chia sẻ quan điểm của một số người khác cho rằng, một ngày nào đó khi Do Thái không còn cần thiết cho lợi ích của Hoa Kỳ, họ sẽ bị bỏ rơi, nhưng tôi tin chắc rằng, chính phủ Hoa Kỳ không thể bắt một dân tộc đồng minh diệt vong khi dân tộc ấy có đủ tài trí và khả năng để tự sinh tồn. Thực tâm tôi không muốn khơi dậy một vết thương chưa lành trong nỗi đau chung của những thế hệ trong trang lứa chúng tôi, một thế hệ đã lãnh đủ mọi tai ách, hy sinh mà không hoàn thành được sứ mạng bảo vệ đất nước, dân tộc mình. Nhưng nếu cứ mãi đổ vấy cho sự thất bại ấy là do sự tráo trở của đồng minh, tự coi mình là một thứ lính đánh thuê thì theo tôi, sự hy sinh của thế hệ chúng tôi trong cuộc chiến vừa qua là một điều rất đáng buồn!...” (trang 498)
Sống xa Tổ Quốc, và đã bước vào cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng người lính chiến Song Vũ vẫn hừng hực chiến đấu, vạch ra âm mưu và dã tâm xâm lăng bờ cõi của giặc Tàu, trước sự yếu hèn của những người lãnh đạo Đảng CSVN. Với ông đất nước dân tộc là tất cả.
Vâng! Đúng như vậy, người lính già cần mẫn, can trường ấy, vẫn chưa thể bước chân ra khỏi cuộc chiến này…
Đức Quốc ngày 7-7-2014
Đỗ Trường

0 nhận xét:

Đăng nhận xét