Ảnh minh họa: Các đại biểu tham dự lễ khai mạc Đại hội đảng 12 tại Hà Nội, ngày 21 tháng 1, 2016. |
Trong bài “Từ nhận thức đến hành động”,
tôi khen nhiều người ở Việt Nam có nhận thức đúng về hiện tình của đất
nước. Khen họ thấy được nguy cơ xâm lấn của Trung Quốc trên Biển Đông.
Khen họ thấy được quốc nạn tham nhũng và sự kiệt quệ của nền kinh tế
Việt Nam. Khen họ cảm nhận được đúng sự xuống cấp của văn hoá, giáo dục
cũng như những vấn đề liên quan đến giao thông, y tế và xã hội. Những
nhận thức như vậy, theo tôi, khá chính xác. Nhưng liệu chúng có đủ để
dẫn Việt Nam đi vào con đường dân chủ hoá hay không?s
Câu trả lời: Không.
Để có dân chủ, người ta cần có những tầm nhận thức khác, trong đó, có
hai nhận thức quan trọng nhất: sự thừa nhận cái khác và ý thức về
quyền.
Cốt lõi của dân chủ nằm ở sự thừa nhận cái khác. Thực chất của cái
khác ấy là cái riêng. Xã hội loài người bao giờ cũng đa tạp và phức tạp,
vừa có cái chung vừa có cái riêng. Nếu không tìm kiếm được cái chung,
tập thể cứ tiếp tục phân hoá, không thể hình thành xã hội được. Nhưng
chỉ có cái chung và triệt tiêu mọi cái riêng, xã hội không thể phát
triển lành mạnh được. Trong suốt chế độ phong kiến, kéo dài cả hàng ngàn
năm, người ta chỉ áp đặt những cái chung lên mọi người. Chỉ ở thời hiện
đại, khi ý thức cá nhân chủ nghĩa hình thành, người ta mới biết tôn
trọng những cái riêng tư và riêng biệt ở mỗi người. Chính việc tôn trọng
những cái riêng ấy sẽ dẫn đến dân chủ.
Ở Việt Nam, cho đến thời kỳ đổi mới vào khoảng giữa thập niên 1980,
chính quyền vẫn không thừa nhận những cái riêng. Thấy rõ nhất là trong
văn học nghệ thuật, ở đó, người ta chủ trương mọi bài viết, thuộc mọi
thể loại, chỉ nhằm phản ánh tinh thần chung của thời đại. Chế Lan Viên
có câu thơ tiêu biểu cho chủ trương ấy: “Khi đứng riêng tây, ta thấy
mình xấu hổ”. Để tránh cảnh “đứng riêng tây” ấy, chính quyền tìm cách
quản lý chặt chẽ giới văn nghệ sĩ. Mọi người đều đứng trong một tổ chức:
Hội nhà văn Việt Nam; tin vào một ý thức hệ: chủ nghĩa Mác-Lênin; đi
theo một phương pháp sáng tác: chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa; có
cùng một đặc điểm: tính đảng và một mục tiêu: phục vụ đảng. Hết. Văn học
nghệ thuật, do đó, dù được khuyến khích và hỗ trợ đến mấy, vẫn không
thể tránh được khuyết điểm này: đơn điệu. Cả trăm hay cả ngàn đoá hoa
rực rỡ nhưng tất cả đều chỉ có một loài hoa duy nhất.
Sau này, từ ngày đổi mới, những ràng buộc khe khắt ấy dần dần được
nới lỏng. Giới cầm bút được khá nhiều tự do để theo đuổi những cái
riêng của mình. Văn học nghệ thuật Việt Nam, trong một thời gian ngắn,
khởi sắc hẳn. Nhiều tác phẩm được dịch sang tiếng nước ngoài và được
giới độc giả cũng như phê bình ngoại quốc đánh giá cao.
Tuy nhiên, xã hội chỉ thừa nhận những cái riêng về văn học, nghệ
thuật hay văn hoá nói chung. Những cái riêng trong lãnh vực chính trị
vẫn tiếp tục bị nghiêm cấm. Trong khi dân chủ thực sự chỉ gắn liền với
những cái riêng về chính trị: Người ta được quyền có những suy nghĩ
riêng về đất nước cũng như về chế độ. Ở Việt Nam hiện nay, tất cả những
người công khai theo đuổi những cái riêng về chính trị ấy đều bị vu tội
là tuyên truyền chống phá nhà nước nên bị trấn áp một cách dã man. Nhiều
người còn bị tù tội.
Nền tảng thứ hai của ý thức dân chủ là ý thức về quyền.
Mọi quyền lực (power) về phương diện chính trị đều dựa trên hai yếu
tố: Giới lãnh đạo thì có thẩm quyền (authority), còn dân chúng thì có
quyền (rights). Thẩm quyền là cái gì được uỷ thác từ những người có
quyền. Hình thức uỷ thác phổ biến và đáng tin cậy nhất là bầu cử một
cách tự do, bình đẳng và minh bạch. Ở Việt Nam cũng có bầu cử. Nhưng bầu
cử ở Việt Nam lại có hai đặc điểm đi ngược hẳn lại tinh thần dân chủ:
Một, chỉ có đảng viên mới được bầu lãnh đạo. Mà thật ra, không phải tất
cả đảng viên. Chỉ có một số đảng viên được gọi là đại biểu mới được bầu
Ban chấp hành Trung ương, rồi chỉ có Ban chấp hành Trung ương mới được
bầu Bộ Chính trị, và, cuối cùng, chỉ có Bộ Chính trị mới được bầu người
thực sự lãnh đạo cả nước. Hai, dân chúng chỉ được bầu Quốc hội, nhưng ở
đây lại có hai điều: Dân chỉ được bầu những ai được đảng đề cử và bản
thân Quốc hội lại không có quyền lực gì cả. Chức năng chính của Quốc hội
là hợp thức hoá những chính sách đã được đảng quyết định.
Thiếu sự uỷ thác, có thể nói, thẩm quyền của giới cầm quyền Việt Nam
là hoàn toàn không chính đáng. Cũng có thể nói, một chế độ chỉ thực sự
chính đáng và thực sự dân chủ khi, và chỉ khi, các quyền của người dân
được tôn trọng.
Nhưng nhà cầm quyền không tự nhiên tôn trọng các quyền của công dân.
Ngày xưa, vua chúa không hề tôn trọng các quyền ấy. Hiện nay, dưới tất
cả các chế độ độc tài, giới lãnh đạo cũng không hề tôn trọng chúng.
Quyền không phải là cái gì tự nhiên hay do bố thí. Quyền chỉ có khi
người ta biết giành lấy. Lịch sử của dân chủ thực chất là lịch sử của
việc giành giật các quyền làm người và quyền làm công dân. Nhưng muốn
giành được các quyền ấy, điều kiện đầu tiên và tiên quyết nhất là người
dân phải có ý thức về quyền của mình. Một trong những vấn đề làm cản trở
tiến trình dân chủ ở Việt Nam hiện nay là, một mặt, nhà cầm quyền không
tôn trọng các quyền của dân chúng; mặt khác, chính dân chúng lại không ý
thức và do đó, không dám nhân danh những cái quyền của mình để đòi hỏi
giới lãnh đạo phải chấp nhận dân chủ.
Khi một số người dân nghe theo lời của giới lãnh đạo “đồng bào đừng
lo, để cho đảng và nhà nước lo”, họ đang tự từ khước các quyền tham gia
vào các sinh hoạt chính sự của mình. Đó không những là một sự vô cảm mà
còn là một sự vô cảm dại dột. Với sự dại dột ấy, dân chủ vẫn là một ước
mơ xa vời.
Nói một cách tóm tắt, trong tình hình Việt Nam hiện nay, muốn có dân
chủ, người dân không phải chỉ cần nhận thức đầy đủ và chính xác những
vấn đề và những thử thách mà đất nước đang đối diện. Người ta cần phải
có ý thức sâu sắc về những cái riêng, những cái khác và những cái quyền
căn bản của mình. Chỉ có những ý thức ấy mới làm người ta không thể chấp
nhận được được sự độc tài toàn trị, và từ đó, dẫn đến những hành động
cần thiết và hiệu quả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét