Đi đâu thi` nói “đi
mô”
“O nớ” ám chỉ “Cái Cô” chung trường
“Ốt dột” khi tui nói thương
Có nghĩa “mắc cỡ” má vương nụ hồng.
“Khôn” là đồng nghĩa với không
“O nớ” ám chỉ “Cái Cô” chung trường
“Ốt dột” khi tui nói thương
Có nghĩa “mắc cỡ” má vương nụ hồng.
“Khôn” là đồng nghĩa với không
Chẳng muốn lấy
chồng, “khôn muốn lấy
dôn”
“Đoản hậu” là “Ác” en
ni
Tui đã … im lặng cứ đi
theo hoài
Nhà tui còn khoảng đường
dài
Có chi noái nấy, ngày
mai hết rồi
Trên cao thì nói “trên
côi”
“Đi rượng” là lúc sóng
đôi như chừ
“Phủ phê” là lúc thặng
dư
Như là tình cảm “đã nư”,
no đầy
“Như ri” có nghĩa như
vầy
“Ở nể” đồng nghĩa ở không
Trai hông lí dzợ., không chồng “ế dôn”
Ngu ngu thì nói “”khôn khun”
Dại dại mô tả “đù đù” mặt ra
Còn trẻ thì nói chưa “tra”
Tới tuổi già già khú đế là “ôn”
Có cô thiếu nữ lấy “dôn”
Lấy được ông chồng thăng chức “mụ o”
“Răng chừ” đồng nghĩa “”khi mô”
“Khi mô” có nghĩa khi nào đó thôi
“Khi mô” có cặp có đôi
“Răng chừ” hết cảnh tuổi đời bơ vơ
Đơn côi “cái trốt” dật dờ
Là ôm đầu bạc “”cà ngơ” một mình
Lặng yên thì nói “mần thinh”.
Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.
“Mua lửa” thì thật phải lo
Vì là mua chịu ai cho “lửa” hoài
“Mắc lửa” là thiếu nợ dài
“Lửa” chi không thiếu, chẳng phai “lửa tình”
“Sáng mơi” là lúc bình minh
Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi
“Bữa tê” em hẹn lại chơi
Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
“Bữa tề” mang lịch ra chia
“Bữa tể” là trước bữa kia hai ngày
“Bữa ni” là bữa hôm nay
Là lúc đương nói hàng hai đây nì
“Mần chi” ai hỏi làm chi
Em muốn làm gi`, “răng hoải mần chi?”
Thế này thì nói “ri nì”
“Rứa tề”, thế đó mần chi đây hè?
Cái cây thì noái cái “que”
Còn ở trước hè lại nói cái “cươi”
Cái “ôn” bản mặt tươi tươi
Ưa đi tán bậy là người “vô duyên”
Trai hông lí dzợ., không chồng “ế dôn”
Ngu ngu thì nói “”khôn khun”
Dại dại mô tả “đù đù” mặt ra
Còn trẻ thì nói chưa “tra”
Tới tuổi già già khú đế là “ôn”
Có cô thiếu nữ lấy “dôn”
Lấy được ông chồng thăng chức “mụ o”
“Răng chừ” đồng nghĩa “”khi mô”
“Khi mô” có nghĩa khi nào đó thôi
“Khi mô” có cặp có đôi
“Răng chừ” hết cảnh tuổi đời bơ vơ
Đơn côi “cái trốt” dật dờ
Là ôm đầu bạc “”cà ngơ” một mình
Lặng yên thì nói “mần thinh”.
Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.
“Mua lửa” thì thật phải lo
Vì là mua chịu ai cho “lửa” hoài
“Mắc lửa” là thiếu nợ dài
“Lửa” chi không thiếu, chẳng phai “lửa tình”
“Sáng mơi” là lúc bình minh
Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi
“Bữa tê” em hẹn lại chơi
Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
“Bữa tề” mang lịch ra chia
“Bữa tể” là trước bữa kia hai ngày
“Bữa ni” là bữa hôm nay
Là lúc đương nói hàng hai đây nì
“Mần chi” ai hỏi làm chi
Em muốn làm gi`, “răng hoải mần chi?”
Thế này thì nói “ri nì”
“Rứa tề”, thế đó mần chi đây hè?
Cái cây thì noái cái “que”
Còn ở trước hè lại nói cái “cươi”
Cái “ôn” bản mặt tươi tươi
Ưa đi tán bậy là người “vô duyên”
Lấy chồng răng gọi mụ o ?
Anh trai lấy vợ, mình thành mụ o
mụ o hiền hậu khỏi lo
mụ o nhiều chuyện là mụ o “dọn” mồm
Tối qua thi` noái “khi hôm”
Hoàng hôn: “Chạng vạng, nghe run quá trời
Sớm mơi mang “chủi xuốt cươi”
Sài Gòn nghe thấy thì cười bò lăn
Lỡ ưng rồi, biết mần răng !
Cái giọng trọ trẹ…..cũng muốn ăn chung một nồi
Con gái chưa noái đã cười
Bị người ta noái là người vô duyên.
Đọc thơ Cai, thấy đã ghiền
Huế ơi nhớ quá, muốn bay liền ra ngay…
Anh trai lấy vợ, mình thành mụ o
mụ o hiền hậu khỏi lo
mụ o nhiều chuyện là mụ o “dọn” mồm
Tối qua thi` noái “khi hôm”
Hoàng hôn: “Chạng vạng, nghe run quá trời
Sớm mơi mang “chủi xuốt cươi”
Sài Gòn nghe thấy thì cười bò lăn
Lỡ ưng rồi, biết mần răng !
Cái giọng trọ trẹ…..cũng muốn ăn chung một nồi
Con gái chưa noái đã cười
Bị người ta noái là người vô duyên.
Đọc thơ Cai, thấy đã ghiền
Huế ơi nhớ quá, muốn bay liền ra ngay…
Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng vẫn
xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để
nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú
hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ;
lúc thanh tao khi khó hiểu.
Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o
đang tuổi lấy chồng: “Tau
noái với mi ri nì, ien còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, ien chộ tau phơi ló ngoài
cươi, ien kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba . . . ien đẩn . Mi quai chướng
khôn ?”
Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói bằng thổ
ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy:
“Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia
kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh
. . . Mày coi có kỳ không ?”.
Chữ đẩn, ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn:
Chữ đẩn, ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn:
“Đẩn cho bưa rồi đi
nghể”.
Ăn cho no rồi đi ngắm gái.
Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn:
“Đẩn cho hắn một chặp!”(Đục cho hắn một hồi!).
Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Xin được thêm một câu
ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có . . . thông dịch viên gốc
Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà . . đã thông cho được:
“Thưa
cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra
răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng con gà,
cụ mự qua chút chò bui.”
(Thưa cậu mợ, bố con vào rừng
rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con
cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá . Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu
mợ qua chút xíu cho vui) Khó hiểu chưa ? !
Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và
cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin
được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài
.
Vì trang báo có hạn, không
thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng
câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi
hơn:
“Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi
rượn đực!”
(Thứ mặt mày hốc hác mà đòi
hóng trai) Độc chưa ?
O mô mà lỡ
mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp.
. . tha hương may ra mới có được tấm chồng.
Chữ rượn gần đồng nghĩa với câu con ngựa
Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém.
Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam,
bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên
nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế.
Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có
nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó lắm, nhưng thâm thuý hơn
nhiều.
“Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại
!”
(Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho
đầy), còn dư ra, con mua lại).
Chữ
lưa cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế: Cây đa
bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi
Này lại (mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm
giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không
dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.
Đập chắc lỗ đầu, vại máu!
Đập chắc lỗ đầu, vại máu!
(Đánh nhau bể đầu, toé
máu!)
Thương bọ mạ để mô ? Để côi
trốt!
Chắc chúng ta cũng thường hay
hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu
này có nghĩa:
“Thương bố mẹ để
đâu ? Để trên
đầu!”
Rồi đưa ngón tay
chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán.
Tra trắn rứa mà còn ở lỗ! (Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng). Ở lỗ cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam
Phổ, ở lỗ trèo cau!”
Lên côi độn mà coi (Lên trên đồi mà
xem.) Chữ coi về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác.
Mự đừng có làm đày! (Mợ đừng có lắm lời, thày lay).
Riêng chữ cụ mự thường là dùng
cho cậu mợ. Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay ông.
Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí ” ở Huế, dân Huế đã có tên
gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ
Phan:
Chiều chiều ông
Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu
sau lưng
Chộ chưa ? Nỏ chộ ! (Thấy chưa ? Không thấy !) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút
giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào ! Hắn mô rồi ? Nỏ biết !
Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở
đâu ! Tục ngữ Huế: Có
vỏ mà nỏ có ruột.
Khóc lảy đảy, không
biết ốt dột ! (Khóc
ngon khóc lành, không biết xấu hổ!).
En dòm tui, tui dị òm ! (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá !) Chữ òm
người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không ? Dở
òm !
O nớ răng mà không biết hổ
ngươi ! (Cô
đó sao mà không biết mắc cỡ !) Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ. Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau
tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.
Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn !: Chiều nó cho lắm
vào, nó làm tới. Mời ôn mệ thời cơm: Mời ông bà dùng cơm.
Mệ tra rồi mệ
chướng: Bà ấy
già nên sinh tật. Chữ chướng, người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc
tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua.
Ăn bụ cua cho hết đái
mế: Ăn vú
cua cho hết đái dầm. Chữ bụ cũng dành cho người và các loài có vú khác. Bụ mạ
là vú mẹ, bọp bụ là bóp vú.
Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn
! (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời
luôn !).
Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê ! hoặc khủng
khiếp quá !, mà còn có nghĩa, thí dụ: Con
nớ đẹp dễ sợ !: Con bé đó đẹp quá trời !
Răng mà cú tráu rứa tê ?: Sao mà cộc cằn
quá vậy ? Chữ cú tráu nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc
cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được
hết nghĩa.
Huế nói trại :
Nói trại là nói sai giọng, không
đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp “nói khác
đi, nói cách khác”. Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư
vùng biển. Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn.
Con tâu tắng ăn ngoài bụi
te tức là con trâu trắng ăn ngoài bụi tre.
Tời tong tẻo, nước tong veo: Trời trong trẻo, nước trong veo.
Tời tong tẻo, nước tong veo: Trời trong trẻo, nước trong veo.
Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói
trại thành “gi”: già (nhà).
Giớ già giớ vợ ở già: Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
Giớ già giớ vợ ở già: Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành
“th”: Ăn thung mặc thướng: Ăn
sung mặc sướng hoặcThầy
gòn là Sài gòn, hoặc nữa: Noái
năng thòng phẳng: nói cho sòng phẳng, rõ
ràng. Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay
“ng”: Con thằng lằng chép miệng thở
thang!: Con thằn lằn chép miệng thở than!
Những
chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa”: Xa
voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ: Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy! Hoặc
nữa: Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai Đi coi bói, thầy
bói nói đi coi cái vòi voi.
Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói
trại thành âm “u”: Thúi
trong thúi ra: Thối từ trong ra ngoài. Túi
lửa tắt đèn: Tối
lửa tắt đèn.
Nậy rồi mà mũi rãi thò
lò !: Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng ! Chữ thò lò
cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
Học
trò thò lò mũi xanh
Cầm cái bánh đúc chạy
quanh nhà thầy !
Vô rú mà đốn
săng: Vào
rừng mà đẵn gỗ. Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp
rất “văn hóa” của Huế:
Bên nữ:
Lẻ củi săng chẻ ra văng
vỏ
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành
than
Trai nam nhân chàng mà đối
đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn
đời
Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành
(Thành) than (Thang). Cái kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Văn, Võ
Thành, Thang là những vị vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu.
Bên
Nam:
Trâu ăn giữa vạc ló
lỗ
Đã ngụy chưa tề
!
Nam nhân chàng đã đối
đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa
?
Nghĩa: Con trâu (Trâu) ăn giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy ?
Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến
Quốc cũng ở bên Tàu luôn. Còn hai người có “tào khang” với nhau được hay không
là chuyện . . . của họ.
En trên rầm thượng bổ xuống, nằm
ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương !: Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng
như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương !
Rầm thượng là gác lửng, hay kho chứa bên
dưới mái nhà ? Ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những
đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên. Muốn lên rầm
thượng, phải bắc thang; thân phụ tôi đã dùng rầm thượng để cất giữ những đồ cổ
vừa phải, không qúy lắm. Còn nếu qúy nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp
đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi,
nặng quá mà ! Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm
ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo.
Nước
mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời !: Nước mắt lau,
thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời ! Chữ chặm cũng đã lãng đãng trong mấy
câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải . . bỏ chày
luôn:
Hai hàng nước mắt như
mưa
Cái khăn lau không
ráo
Cái áo chặm không
khô
Công anh đổ xuống ao
hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ
!
Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu
!: Mặt mày một . . đống, ai chịu cho nổi
! Chữ thấu cũng có nghĩa là tới: Kêu
trời không thấu: Kêu không tới
trời; Vô thấu trong Thầy gòn: Vô
tuốt trong Sài gòn . Mả
cha cái thằng vô hậu: Tiên sư cái thằng
đoảng.
Ăn trầu cơi
thiếc: Ăn trầu (để) trong hộp, quả bằng thiếc. Cái
cơi thiếc cũng đã đi vào tục ngữ Huế: Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi
thiếc.
“Mả cha
mi” là
tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với “mồ cha mày”.
Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác.
Đi xe hay đi chưn xuống rứa
?: Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy
?
Túi thùi thui, có chộ chi mô
!: Tối quá, không thấy gì
hết!
Rạt gáo rồi mà còn làm le
làm gió !:Cạn túi rồi mà còn làm chảnh, làm sang
!
Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước
chè: Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh).
Tục ngữ Huế: Ăn
lưng đoại, làm đoại lưng (làm muốn gãy lưng !).
Cơm hến, chẳng có
chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non,
rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến
xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế.
Bữa ni đi kéo
ghế: Hôm
nay đi ăn nhà hàng. Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản,
trên tấm ngựa. Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào
bàn. Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế.
Huế làm đày làm láo, Huế nói chữ
Vâng, người Huế, nhất là mấy o,
mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa. .
. làm đày làm
láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông
nói dài. Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan
thì “tụng” mới phê !
Cái phong cách
noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy
đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn
quá, lu bu lắm. Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp
ngữ:Cái con nớ, lanh cha lanh chanh !
Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm tức
mấy bà chị chồng mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: Răng
mà hắn vô phép vô tắc rứa hè !: Sao mà nó vô
phép quá vậy!
Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn
mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi thui, vàng
khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt).
Bởi, cà rịch cà tang rứa mà
đoài làm giôn !: Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể
!
Còn nữa, để than trách ông trời
sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than
ngắn: Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai !.
Một bà
mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc
một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới
mái gia đình:Mi phải suy đi nghĩ lại cho
kỹ ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa
lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa. Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba
tất bật để nuôi mình. Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan
!
Cái thông điệp cho thằng em trai thì: Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm
đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở,
vô khuôn vô phép. Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm
răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được
?!
Mấy ôn, khi giáo
huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của
mình: Đó, mi thấy đó. Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng
ngoài Ngọ Môn. Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi
lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ
!
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập
tành đi nghễ mấy
o Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử
ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp
nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực
Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ. Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi
pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ giớ, cho khỏi
quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều. Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn
tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó. Cho
nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút
âm thanh của những ngày xưa cũ.
Phan Thịnh
(sưu tầm)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét