Một chiếc tàu vượt biên được tàu Cap Anamur cứu vớt. Nguồn hình: vuhuyduc.blogspot.com |
Vũ Nam (Germany)
Tháng
10, 1980 gia đình chúng tôi và những người bạn đồng hành trong cuộc
vượt biên nguy hiểm, cùng với gần 600 người vượt biên khác đã được tàu
Cap Anamur Tây Đức cứu vớt ngoài biển Đông mang vào gửi ở trại tị nạn
Palawan, Phi Luật Tân.
Buổi trưa tàu
chạy dọc theo đảo Palawan của miền tây nam nước Phi. Sóng biển khi tàu
đi sát bờ không còn dữ dằn như hôm qua hôm kia, lúc tàu đang giữa biển.
Trong cơn bão, dù nhỏ, nhưng tàu vẫn lắc lư, chòng chành, mặc dù đang
chạy. Gió phất trên boong tàu, làm chúng tôi dù nằm sâu ở dưới lòng tàu
cũng thấy chóng mặt. Thỉnh thoảng một cơn gió mạnh, một con sóng mạnh
tạt những làn nước biển xuyên qua cầu thang, xuống tận nơi chỗ nằm của
chúng tôi, cũng làm ướt áo. Thuyền trưởng báo trời đang có bão, tàu sẽ
rời vùng bão, sẵn dịp mang người tị nạn vào gửi ở trại, không chạy lên
chạy xuống, dọc theo ngoài hải phận Viêt Nam để cứu vớt người vượt biên
như mấy hôm nay nữa.
Nghe được tin này chúng tôi thật mừng. Thật tình lúc đó, tôi không
còn nghĩ đến những đồng hương khác đang lặn hụp trong bão tố giữa biển
khơi với những chiếc ghe xuồng nhỏ của họ. Lo cho riêng bản thân và gia
đình mình là suy nghĩ gần như của toàn xã hội trong những ngày khổ sau
khi hòa bình đã lập lại! Và phần khác cũng vì đã mười ngày rồi, đông
người trên tàu quá nên không còn đủ nước ngọt. Chuyện tắm giặt phải hoàn
toàn bằng nước biển. Máy lọc nước mặn thành ngọt của tàu đủ để nấu thức
ăn, nước uống. Mọi người chỉ còn trông sớm lên đảo để có nơi tắm giặt
bằng nước ngọt.
Màu xanh lá cây rừng dọc bờ biển đảo Palawan bạt ngàn nằm trong
màng sương biển. Những hạt mưa nhỏ vì ảnh hưởng của cơn bão ở biển Đông
vẫn còn vây quanh, phủ trùm lên cảnh vật với màu trắng mỏng. Tàu đang
chạy trong vùng vịnh, nên chỉ còn những con sóng nhỏ đánh vào hông tàu.
Mọi người được phép lên boong tàu để xem cảnh vật. Quang cảnh trên đảo
không có núi cao, không thấy những căn nhà, chỉ toàn thấy một màu xanh
của những cánh rừng miền nhiệt đới. Chúng tôi đi tới lui trên tàu và rất
phấn khởi để chuẩn bị lên đất liền, về trại tị nạn, sau khi tàu cập
bến.
Rồi tàu cũng vào bến đậu. Lâu rồi tôi cũng không còn nhớ rõ, nhưng
hình như là đoàn các em Hướng Đạo Sinh ra gần cầu thang tàu đứng thành
hàng để chào đón chúng tôi. Những em thanh thiếu niên mặc áo quần đồng
phục, áo vàng, quần xanh ngắn, khăn quàng cổ cũng màu xanh, đẹp. Mấy em
được các anh chị mặc quần áo đồng phục, dài, tươm tất, hướng dẫn. Chúng
tôi từ giã các bác sĩ, y tá, nhân viên trên tàu, rồi từng người rời tàu,
xuống các ghe nhỏ để vào bờ, nơi đó đã có những chiếc xe buýt đang chờ
để chở chúng tôi về trại.
Đến trại trời đã
bắt đầu tối, nên không thấy được toàn cảnh. Mọi người được đưa vào một
phòng lớn, người hướng dẫn nói đó là hội trường. Mỗi người một chiếc
chiếu, trải ra nằm tạm, sát nhau, trên nền xi-măng. Trên trần nhà một
bóng đèn vàng, đủ ánh sáng để không dẫm đạp lên nhau khi phải đi lại
trong đêm.
Hôm sau, khi chưa tỉnh ngủ hẳn đã nghe tiếng nhạc 'đánh thức' bằng
một giai điệu rất rộn ràng. Điệu nhạc cứ lập đi lập lại. Làm ai không
thức dậy nổi cũng phải dậy để ra phông-tên lấy nước rửa mặt sút miệng,
chuẩn bị lãnh bánh mì ăn sáng.
Nhưng điệu nhạc 'đánh thức' vào buổi sáng này không làm tôi ngạc
nhiên bằng những lời ca trong các bản nhạc sau đó được trại cho phát
trong ngày, mà sau này hỏi ra tôi mới biết tựa và tác giả của nó như
'Lời kinh đêm', 'Em vẫn mơ một ngày về', 'Một chút quà cho quê hương',
'Mời em về', 'Mưa Sài Gòn còn buồn không em'... của Việt Dzũng và Nguyệt
Ánh, hai ca nhạc sĩ ra đi tị nạn từ năm 1975.
Lời ca bản nhạc làm tâm hồn những người mới lên đảo đắm chìm lại
trong nỗi ký ức đã hằn dấu từ những năm 75 ở quê nhà: những tù tội, nhọc
nhằn, đổ vỡ, tan thương, xót xa, gào khóc và khổ..., những tỉnh từ trầm
luân này vẫn chưa nói hết nổi những đoạn đường khổ nhọc của người dân
Việt Nam kể từ ngày 30 tháng tư, tôi nghĩ vậy. Lời là thế, nhưng hay hơn
nữa phải nói là điệu nhạc. Có những điệu nhạc sao buồn quá, như bản
'Một chút quà cho quê hương', 'Mưa Sài Gòn còn buồn không em', 'Lời kinh
đêm'... Lời và nhạc hòa quyện lại với nhau trong những vần điệu buồn.
"Em gửi về cho anh dăm ba điếu
thuốc, anh đốt cháy cuộc đời cháy mòn trên ngón tay, gửi về cho mẹ trăm
chiếc kim may, mẹ may hộ con quê hương quá đọa đầy....." Hay: "Mưa Sài Gòn, ôi mưa Sài Gòn bờ đại dương em còn chờ đón, ta ra đi mất lối quay về, rồi chiều mưa ai đón đưa em..."
Nhưng có những điệu nhạc và lời ca sao hùng dũng quá, can trường quá, như trong bài 'Em vẫn mơ một ngày về': "Em vẫn mơ một ngày nào tay chúng ta chung một màu cờ trên con đường làng..."
Nguyệt Ánh – Việt Dzũng- Quốc Hận 30-4 tại Oregon năm 1999. Nguồn hình: tienggoicongdan.com |
Giọng ca Nguyệt Ánh, Việt Dzũng thật truyền cảm. Truyền cảm ở đây
trong ý nghĩa uất nghẹn, đau thương trong tình yêu quê hương đất nước,
tình yêu thương những thành phố, con người còn ở lại VN, con người nằm
dưới lòng biển sâu, con người tấp giạt vào bờ đất Thái, Phi, Indo. với
'đong đầy nước mắt'. Và truyền cảm trong niềm tin yêu hy vọng cho tương
lai đất nước, chứ không phải là nghĩa truyền cảm thường tình của tình
yêu trai gái.
Và đặc biệt sau
cùng là bản nhạc Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi, cùng tất cả người
Việt tị nạn trong trại, ra đứng làm lễ chào quốc kỳ đầu tiên do trại tị
nạn tổ chức vào buổi sáng đầu tuần, sau ngày đặt chân lên đảo:"Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.....",
cùng với ngọn cờ vàng ba sọc đỏ từ từ kéo lên, tung bay trong làn gió
biển, làm lòng tôi rúng động, ngập tràn niềm thương cảm, nhung nhớ cho
màu cờ, tiếng ca từ bản nhạc, mà đã năm năm qua tôi không một lần thấy
và nghe được khi còn ở Việt Nam.
Trải qua những ngày khổ cực ở quê nhà, hãi hùng tại bờ biển trong
những đêm vượt biên, hôm nay đứng chào cờ và hát quốc ca VNCH trên mảnh
đất xa lạ Phi, dưới ánh nắng ấm áp, chan hòa, mùi hương biển của thành
phố Puerto Princesa trên đảo Palawan, hằng trăm con người tị nạn VN đứng
yên lặng, trầm buồn để nghĩ về thân phận thuyền nhân của thời hiện tại.
Rồi cứ mỗi ngày qua, tiếng nhạc đánh thức, tiếng ca Việt Dzũng,
Nguyệt Ánh cứ vang lên trong trại. Tiếng ca hối thúc, kêu gào, tiếng ca
mang niềm tin yêu lại cho con người, hòa lẫn với con sóng biển vỗ về đập
vào bờ của trại tị nạn, mỗi ngày, mỗi tuần, đã trở thành âm thanh thân
yêu, quen thuộc.
Có những buổi chiều tôi đi dạo dọc theo bờ biển của thành phố này,
đi xa khỏi trại, đi trên những dải cát trắng, dưới những hàng dừa, nhìn
những người Phi chạy bộ thể thao dọc theo bờ biển, nhìn ra xa những con
chim biển, một cảm giác nhớ nhung về nơi làng quê tôi sinh ra, cũng
biển, hiện về, nhưng lập tức phải cố quên ngay vì nơi làng quê đó, những
bờ biển đó, hôm nay bạo lực dãy đầy, mà tôi đã từng chứng kiến cách đây
không lâu, khi những người công an, cán bộ địa phương đã đối xử như thế
nào với những người vượt biển, khi ghe họ bị bão hay hư máy, buộc phải
tấp vào nơi bờ biển quê tôi mong thoát qua cái chết giữa biển, nhưng để
rồi phải hứng chịu những trù dập, đánh đập ngay tại bãi biển của quê
hương VN mình. Cũng như tôi đã từng nghe một phụ nữ lai Tàu, trên tay
đang ẵm con, đã kể cho tôi ghe câu chuyện hãi hùng về chuyến ghe ra đi
„bán chính thức“ của chị. Khi ghe vừa tấp vào một làng làm biển, cạnh
làng tôi:"Ghe vừa gần ra đến hải phận thì bị phá nước, nước vô đầy ghe.
Họ thu vàng nhưng cho đi trên chiếc ghe sắp mục! May mà có cá ông đưa
vào bờ!".
May mắn tôi và gia đình đã vượt thóat ra khỏi nước cũng ngay tại
bãi biển quê nhà, mà không phải gặp cảnh hãi hùng, tù tội, như các anh
chị em thiếu may mắn khác.
Sau một tháng ở Palawan, chúng tôi được đưa về trại tị nạn Bataan.
Chín tháng dài ở đây tôi không một lần nghe lại được nhạc của Nguyệt
Ánh, Việt Dzũng. Ở miền rừng núi nơi đây chúng tôi chỉ còn nghe tiếng
mưa rơi, tiếng suối reo thay cho lời ca tiếng hát.
Sau này, khi đã định cư ở Đức, tôi mới lại được nghe lời nhạc tiếng
ca của Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, từ chiếc máy cassette và tiếp đó là
những bản nhạc viết về đời tị nạn rất hay như 'Sài Gòn niềm nhớ không
tên", như "Sài Gòn ơi ta có ngờ đâu rằng, một lần đi là một lần vĩnh biệt, một lần đi là ta mất nhau rồi, một lần đi là mãi mãi chia xa... " Nghe thật nhức nhối.
Nhưng cuộc sống mới ở xứ người, những đứa con tiếp tục lần lượt ra
đời, việc học nghề nghiệp. công ăn việc làm.... Bao việc đó đã làm cho
tôi hầu như dần quên một thú vui: nghe nhạc.
Thú thật, nhiều tháng không nghe nhạc một lần! Không những không
còn nghe những bản nhạc đấu tranh của Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, mà ngay cả
những bản tình ca dễ thương mà tôi thích nghe như ‚Hạ trắng’, ‚Diễm
xưa’, hay những tình ca quê hương, tình ca người lính như 'Khúc ca ngày
mùa', 'Chuyện một chiếc cầu đã gãy', 'Trên bốn vùng chiến thuật', 'Rừng
lá thấp'... bao tháng miệt mài tôi vẫn không một lần được nghe. May mắn
là vào dịp có Tết Nguyên Đán, khi các hội đoàn tổ chức gặp gỡ, văn nghệ
đón xuân giữa mùa đông xứ người, đến, tôi mới nghe lại được những bản
nhạc quê hương thân yêu này. Lòng chùng xuống trong điệu nhạc, lời ca.
Chính những lời ca tiếng hát này đã làm tâm hồn thanh thiếu niên
chúng tôi ngày trước trở nên...hiền. Tôi có ý nghĩ như vậy. Hàng ngàn
lời ca trong hằng trăm bài hát đều nói lên tình yêu. Yêu trong tuổi học
trò ..."Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chan tình thương"... Tình yêu trong thời chinh chiến... "Tôi có người yêu tuổi ngọc vừa tròn vì chinh chiến ngược chưa về thăm một lần...."; "Về đây bên nhau ta nối lại tình thương..." Và còn biết bao nhiều là lời ca hiền hậu đầy ân tình.
Bây giờ, nhìn về xã hội VN, sao ai cũng nói trẻ em bây giờ ngỗ
nghịch quá, ai cũng than sao thanh niên bây giờ dữ quá, từ một cái nhìn,
một câu nói cũng có thể đâm chém nhau; ngay cả các cô nữ sinh 14, 15
tuổi cũng có thể ôm đầu đánh nhau ngoài đường! Lỗi tại ai, chắc ai ai
cũng biết! Với rất nhiều lý do.
Bao giờ con cháu chúng ta không còn nghe những câu hát như "thề
phanh thây uống máu quân thù", những câu thơ như "giết giết nữa bàn tay
không mệt mỏi", và khi các giai thoại nhạc quê hương ngày xưa trở lại
thịnh hành, phổ biến, để mỗi con em đều có thể thuộc lòng, ca lên, có lẽ
lúc đó lớp trẻ mới lớn của người Việt trong nước sẽ từ từ hiền hậu lại.
Tôi tin chắc như vậy.
Vũ Nam (Germany)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét