Ông Bùi Viện |
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả
người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng
Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ).
Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ
Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ
Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2,
là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ
ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết
tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm
việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn
bể.
Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng
đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ
sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849,
ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4
năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê
Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó ông
trở về thành phố Xanh - Phát - Lan - Xích - Cố ( phiên âm của San
Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của
Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi
lại.
Trong cuốn sách La Ruée Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB
Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người
đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở
thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi
cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.
Thời đó, "Wild West" (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để
chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi
lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao
bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo
hiểm người Canada tên là Mark lập nên.
Ông và những người
tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake
City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là "Oh! Suzannah" (Oh!
My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm,
anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên
đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến
California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành
viên trong đoàn.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng,
tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm,
khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy
hiểm dọc đường đi.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở
lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy
bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều
ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho
nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho
tờ nhật báo Daily Evening.
Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay
đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San
Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da
vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho
rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa
không gì cứu vãn được.
Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu
giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày
8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị
tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai
phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng
Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và
sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều
không đoái hoài đến.
Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim.
Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco
và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý
"uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ông.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu
nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã
tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn
của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một
cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
Người Minh Hương cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim.
Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận
là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có
công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định
Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được
hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương. Trong di
chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là
Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.
Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở
làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10
năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những
ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định
Tường. Khi người anh nhắn lại: "gia đình bình yên và lúc này người đi xa
đừng vội trở về", Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở
miền Tây Nam Bộ.
Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực
dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn
bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh
phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những
năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã
khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê
Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn
công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng.
Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière
chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết
không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn
giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: "Trước khi chết, cụ dặn cụ bà
lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu,
đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay
dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần". Trên mộ của Lê Kim ở
Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: "Lòng trời không tựa,
tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần
hùng nhị còn truyền hậu thế".
Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim
còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp
xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc
khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh
tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở
Đồng Tháp thế kỷ 19
(Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét