Ads 468x60px

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2014

Dấu ấn người Chăm trong lễ cúng đất vùng Nam Trung Bộ

Tờ thị của Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng
hiện còn được lưu giữ ở Đền thờ Lương Văn Chánh
(xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên)
Thiện Ngộ
Bốn bộ chính sử lớn của nước ta là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Nhất Thống Chí, Phủ Biên Tạp Lục đều ghi lại năm 1471, vua Lê Thánh Tông nhà Hậu Lê đem quân Nam chinh, hạ kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành (Quy Nhơn ngày nay).
Đức vua còn đem quân đuổi Chiêm Thành đến tận chân Đèo Cả rồi rút về, lấy Đèo Cù Mông làm địa giới phân ranh giữa Đại Việt – Chiêm Thành. Tháng 6 năm 1471, miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) được sáp nhập vào Đại Việt. Còn vùng đất phía nam đèo Cù Mông vẫn thuộc người Man, người Lạo, cụ thể là thuộc hai vương quốc Hoa Anh và Nam Bàn. 
Nước Nam Bàn theo sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cho biết là đất của Thủy Xá, Hỏa xá (Gia Lai, Kon Tum và Đắc Lắc ngày nay). Nước Hoa Anh theo ý kiến của giáo sư Đào Duy Anh và giáo sư Hà Văn Tấn thì thuộc vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay. 
Theo dấu sử xưa
Dù sách Đại Nam nhất thống chí cho rằng vùng đất phía bắc Thạch Bi Sơn đã là lãnh thổ Đại Việt kể từ năm 1471 nhưng mãi cho tới năm 1578, khi Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh nhận lệnh chúa Nguyễn Hoàng đem quân tấn công vào nước Hoa Anh, chiếm được thành Hồ (thị trấn Phú Hòa, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên ngày nay) thì vùng đất từ dãy Cù Mông đến Đại Lãnh mới chính thức do Đại Việt quản lý. 
Tờ thị của Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng ngày mồng sáu tháng Hai, niên hiệu Quang Hưng (Lê Thế Tông), năm thứ hai mươi (Đinh Dậu, 1597) viết rằng “Báo cho Lương Văn Chánh là Phù Nghĩa Hầu đã có công tòng quân lâu ngày, được quyền coi sóc trấn An Biên, huyện Tuy Viễn, đốc thúc số lưu dân ở xã Bà Thê và các phường thôn khách hộ theo làm nhiệm vụ, dẫn đem theo những hộ dân mới tới đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Đà Nông, trên từ vùng sơn cước, dưới thì đến các cửa biển, cùng nhau lập nhà cửa, khai phá đất hoang hóa thành ruộng vườn, trải qua ba vụ thì nộp thuế như lệ. Nếu sinh việc sách nhiễu nhân dân mà bị phát giác sẽ phải chịu tội. Nay báo!”. 
Tờ thị thể hiện rõ quan điểm của chúa Nguyễn Hoàng nói riêng, các chúa Nguyễn sau này nói chung là “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Hoành Sơn một dải, dung thân muôn đời), tức lấy thu phục nhân tâm làm trọng, tập trung khẩn hoang đất đai và xử lý nghiêm việc nhũng nhiễu dân lành.
Cư dân thời kỳ này bao gồm người Chăm ở lại và người Việt mới di dân vào. Trước đó, vào năm 1306 khi vua Trần Anh Tông nhận hai châu Ô, Rý là của hồi môn gả Huyền Trân công chúa từ vua Chế Mân của Chiêm Thành thì người Việt mới di cư đến đã học được cách làm ruộng theo mùa của dân Chăm, cày cấy vào tháng Mười để gặt vào tháng Tư vì ở châu Ô, Rý trở vào Nam thì tháng Tư và tháng Năm rất ít mưa, nắng gắt và gió Lào khủng khiếp. Từ đấy mà ta có những danh từ lúa Chiêm, cấy vụ Chiêm, gạo Chiêm… để phân biệt với thói quen làm vụ mùa ở miền Bắc. Công cuộc mở mang bờ cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn được thực hiện theo lối tàm thực, sử dụng chính sách mềm dẻo, lấy phát triển dân sinh, mở mang nông nghiệp làm trọng. 
Do vậy trong thời gian này, người Việt vẫn coi mình là khách và người Chăm (còn gọi là người Chiêm, người Hời) mới chính là chủ nhân thực sự của vùng đất này. Hai châu Ô, Rý, tức là từ Trị Thiên trở vào vốn là đất của người Chăm, nên dân gian cho rằng hàng năm cần phải qua một nghi lễ thuê đất Chăm mà chủ là Ngung Man Nương. Do đó, người ta làm lễ cúng đất, nói chính xác là Lễ tá thổ (thuê đất).
Lễ tá thổ
Lễ tá thổ - một sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng
Lễ tá thổ gắn liền với trò diễn 'Đàn xà trảm mộc', vốn là một loại hình nghệ thuật dân gian rất phổ biến trước đây ở nông thôn vùng duyên hải Nam Trung Bộ, nhất là vùng Phú Yên – Khánh Hòa.
Theo một số người lớn tuổi ở Phú Yên thì câu chuyện được các cụ xưa truyền miệng lại như sau: “Ngày xưa, khi dân cư đến lập nghiệp tại Phú Yên, thường bị ma quỷ quấy nhiễu, dân chúng không làm ăn được. Dân làng cầu các vị thần linh lên hỏi, mới biết là muốn được yên ổn làm ăn thì gia chủ phải làm giấy “vay mượn đất” và “nạp lễ vật” cho chủ đất cũ (là người Chăm)”.
Lễ cúng tá thổ được thực hiện ở phạm vi gia đình và làng xóm. Ở làng xóm thì 3 hoặc 5 năm cúng một lần, ở gia đình thì ngày cúng thường được tổ chức khoảng từ 16 - 18 tháng 3 (Âm lịch). 
Lễ vật cúng gồm heo, gà, rượu, hương đăng, hoa quả. Đặc biệt phải có 5 hòn đá để thầy phù thủy vẽ năm ông tướng trấn ở năm phương mảnh đất đã thuê mướn. Trong lễ này, quan trọng nhất là việc ký khế ước thuê đất giữa chủ đất và người thuê đất. Thời gian thuê mướn có thể 5 hoặc 10 năm hoặc lâu hơn. Các quan hệ thuê mướn do thầy phù thủy đảm nhận, thông qua việc xin keo bằng hai đồng tiền âm dương, dưới sự kiểm soát của Ngọc Hoàng Thượng Đế và Thái Thượng Lão Quân. Sau lễ này mà âm phù vẫn để cho hoang quỷ về phá phách tức là đã vi phạm khế ước nên phải trị tội. Lúc này, nhân dân tổ chức diễn 'Đàn xà trảm mộc' để đánh đuổi ma quỷ không cho chúng nhiễu hại.
'Đàn xà trảm mộc' được mở đầu bằng ba hồi trống dài nhằm báo hiệu với trời đất và khai thông thái cực. Tiếp đến, thầy lễ mời các vị chánh bái, bồi bái, hào cựu lạy thần rồi đọc các hịch của lễ cúng là: Khai phù sứ 'Sai 5 vị tướng trấn 5 phương', khai phù cờ 'Đem 5 lá cờ cắm 5 phương', phù diêm mỡ 'Đưa gạo muối về 5 phương', khai quang điểm nhãn các quân hầu để nạp cho Bà Chúa Đất (Ngung Man Nương), phát lương, phát hịch và cuối cùng là lớp tống quái. Vào lớp này, thầy phù thủy thực hiện công việc 'đàn xà trảm mộc', đồng thời sai quân đem 5 ông tướng đi trấn ở 5 phương. Xong việc, thầy phù thủy bắt đầu lễ cúng kỳ an và từ đây dân làng cũng bước vào cuộc “xây chầu, đại bội” với các vở tuồng được chọn trước như: Cổ thành, Phục huê dung đạo…
Ngày xưa, Lễ tá thổ được tổ chức rất công phu, đặt dưới sự điều khiển của một thầy pháp – người trung gian thực hiện các thủ tục liên hệ giữa cõi âm và cõi dương.
Ngày nay, đình Phú Cang (xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa) là nơi vẫn còn bảo lưu lễ hội kỳ an tá thổ, được tổ chức vào ngày 18 tháng 3 Âm lịch hàng năm. Tục lệ này là một nét đẹp trong văn hóa, thể hiện rõ nét quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Chăm xưa.  
Thiện Ngộ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét