Khoa học cho
biết trong không gian luôn có những sóng vô hình tác động vào cơ thể con người
làm cho mình bỗng nhiên thay đổi sinh hoạt, thay đổi tính tình, cảm xúc. Đã hai
tháng nay, thềm lục địa của nước mình bị cái giàn khoan khổng lồ của của tên cướp
biển cắm vào trúng long mạch của nòi giống Việt, chẳng biết có phải vì thế mà
khiến cho nhiều người Việt mình ăn ngủ không yên, hằng đêm thắc thỏm, cứ thắp
nhang lên bàn thờ là thấy hình ma quỷ hiện về, lo nghĩ mung lung, đêm nằm thường
sinh ác mộng. Tôi ngẫm từ cá nhân mình thì biết. Xin kể với bạn bè những suy
nghĩ mung lung ấy của mình thường bất chợt hiện về trong giấc ngủ. Tản mạn đủ
điều, không mạch lạc.
1. Ác mộng
Cứ lơ mơ ngủ
là hiện ra rõ mồn một cảnh một gia đình cự phách bỗng dưng tan tác như một lũ
ăn mày. Tổ tiên họ để lại cho con cháu một cơ ngơi đồ sộ đủ làm ăn no ấm đến
muôn đời.
Chẳng ngờ thằng anh cả say mộng gia trưởng, hão huyền, lừa đàn em để
lén đi đánh bạc với lão hàng xóm tinh quái, bị thua bạc phải đem gán cả cái gia
tài gấm vóc ấy, lại ngầm ký mấy bản giao kèo hẳn hoi.
Hốt hoảng sợ gia đình biết sẽ đánh đuổi ra đường, thằng thua bạc
bèn nói khó với lão hàng xóm tìm cách lo liệu sao cho trót lọt. Hồi lâu bàn bạc,
hai bên nghĩ ra một mẹo, không trao cả gia tài ngay một lúc mà cứ “bàn giao” từng
phần, cho gặm dần như tằm ăn lá dâu, nay thuê khoảnh vườn này 50 năm, mai cho một
bọn gia nhân sang làm nhà ở nhờ một góc, mốt cho thuyền bè sang đánh cá chung tại
hồ, lại cho mấy con nô tỳ ăn ngủ với thằng anh cả ấy đến có con riêng…
Gia đình có phát
hiện thì thằng anh cả mất nết ấy cứ dùng “quyền huynh thế huỵch” lấp liếm vài
câu lấy lệ, cũng ra vẻ khoa chân múa tay phản đối lão hàng xóm cho qua chuyện,
hứa hươu hứa vượn cốt sao gia đình không nổi giận, nổi khùng. Cứ thế chẳng mấy
chốc cả gia tài đồ sộ rơi hết vào tay lão hàng xóm, còn gia đình thì “may mắn”
được lão hàng xóm “tốt bụng” mở lượng hải hà cho lưu trú ở một góc vườn, con
cháu đời đời được làm kẻ hầu người hạ cho lão hàng xóm tham lam tinh quái. Cả
gia đình bất hạnh chỉ còn biết ngậm một nỗi căm hờn trong tủi nhục, chẳng biết
trách mình ngu dại, lại thầm trách tổ tiên đã làm gì thất đức để sinh ra một thằng
con trưởng vô phúc, bán cả cha ông…
Tỉnh dậy thấy
mắt mình ươn ướt, chắc mắt già kèm nhèm nó thế, chứ chẳng lẽ lại vớ vẩn thương
cái gia đình trong mộng, thế rồi mệt quá mà ngủ thiếp đi.
2. Ngộ độc hàng Tàu
Đấy là chuyện
ngủ, giờ đến chuyện ăn. Một đất nước xưa nay rất trong lành mà bây giờ hằng
ngày ăn gì cũng sợ độc, một thứ độc rất… Trung Quốc! Vợ tôi thường mua lê mua
táo thắp nhang, những quả táo quả lê rất đẹp nhìn mà phát thèm, thế nhưng để
quên ba tháng trên bàn thờ mà trông vẫn đẹp mã như không mới hoảng hồn chứ, bổ
ra thấy quả thì rắn như đá, quả thì thối đen bên trong, không biết họ tẩm chất
gì lạ thế, chỉ dân mình là khổ.
Nhưng đêm nằm
nghĩ lại thấy người dân còn may, chứ lớn lao như Đảng ta mà xơi phải món vịt tiềm
thuốc Bắc “Thập lục kim tự” (vịt đây là vịt Bắc Kinh chính hiệu) là biến
thái ngay không cứu được nữa là.
Động lòng trắc
ẩn, tôi nhập hồn Bút Tre, nhỏm dậy, bật đèn ghi vội vào nhật ký:
Ngộ độc là
tại hướng (ba) đình
Cả làng ngộ
độc, cớ chi mình kêu ca?
Đường đường
như thể đảng Ta
Xơi phải mười
sáu chữ, cũng biến ra… đảng Tàu!
Biết có bậc đại
nhân cũng ngộ độc như mình, như có người “đồng bệnh tương lân” nên tấm lòng AQ
cũng tự sướng đôi chút.
3. Ước gì mình nhầm
Viết thế rồi vẫn
cứ áy náy, liệu mình nghĩ như thế có nhầm không, có quá không? Vẫn biết tình
hình hiện nay, hai chữ “bán nước” thiên hạ đã nói, đã viết giăng giăng
khắp nơi, đến nhà “Hồ Chí Minh học” Nguyễn Khắc Mai cũng đã công khai bảo cái
công hàm của chính phủ Phạm Văn Đồng (tất nhiên dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch)
là phản động, phản quốc rồi, nhưng thôi, cứ níu lấy hy vọng chút xíu, cứ đắm đuối,
cứ mong sao những suy nghĩ của mình là nhầm lẫn thì đại phúc cho dân, theo kiểu
“lạc quan vô tận” ấy mà. Trước đông người, ai nỡ buông một lời tuyệt vọng? Lạy
trời cho những lời phê phán của mình là nhầm, nhầm vài phần trăm thôi cũng được.
Nhưng khốn nỗi,
không gì chống nổi thực tế, những tin tức sáng nay (xem phần dưới) đã thêm một
lần quyết định, cho thấy sự kết tội như thế chẳng những không nhầm, rất không
nhầm, mà trái lại còn chưa tới, chưa ngang tầm với thực tế đồi bại không thể chối
cãi. Cuộc đầu hàng và Hán hóa đã đi nhanh hơn sức mình tưởng tượng, vì được chuẩn
bị quá lâu rồi.
4. Những tin tức sáng nay.
Tin thứ nhất
là ảnh chụp bức công văn của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi các địa phương về 16 điều
cần làm ngay để thực hiện theo ý
kiến của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (xem tại đây, và tại đây). Trong đó có điều 1 “Thúc đẩy Ủy viên Bộ chính
trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị và Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải thăm Quảng Đông”.
Và trong điều
2, Trung Quốc sẽ đào tạo các cán bộ đảng cho Việt Nam, cụ thể là “trong 05 năm đào tạo 300 cán bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam; trong đó Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi địa phương 100 cán bộ,
100 cán bộ của các tỉnh thành có quan hệ hợp tác với Quảng Đông nhiều như TP. Hải
Phòng, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam“.
Tưởng Việt Nam
đã cam tâm làm một tỉnh “Quảng Nam” của Trung Quốc, hóa ra không được thế, chỉ
đáng là một địa phương trong vòng quản trị của tỉnh Quảng Đông thôi. Chẳng
trách UV BCT Nguyễn Thiện Nhân cũng chỉ ở tầm nhảy múa với tỉnh Quảng Tây, thế
cũng vinh dự chán! Hề hề, trước đây học sách thấy hai chữ “khuyển mã”, giờ mới
hiểu nghĩa. Bình luận thêm nữa là thừa.
Tin thứ hai, một
cán bộ khá cao cấp cho biết tinh thần chống xâm lược mới nhất của Trung ương cần
được quán triệt là :
Một: Tận dụng mọi phương tiện truyền thông, mọi
diễn đàn để tố cáo China, NHƯNG DỨT KHOÁT KHÔNG KIỆN.
Hai: Xác định Mỹ vẫn là kẻ thù lâu dài (của đảng)
vì đi với Mỹ thì mất chế độ.
Ba: ĐẢNG RẤT THƯƠNG DÂN, có chiến tranh thì
nhân dân sẽ khổ, nên đảng phải nhịn Trung Quốc hết mức, không để xảy ra chiến
tranh tránh khổ cho dân.
Tuy đây chỉ là
thông tin từ thư của bạn bè, nhưng đối chiếu với thực tế và theo kinh nghiệm
cho biết những tin tức này là đáng tin cậy, một đảng viên tử tế không thể bịa
ra những tin đang phổ biến trong đảng như thế này. Tin tức này gợi ra một số vấn
đề mà tôi thường nghĩ tới nhưng chưa có dịp viết ra, xin đề cập đến ở phần sau.
5. Kiện hay không kiện?
Có ba vấn đề khác nhau:
- Về đường lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông thì Trung Quốc vô lý hoàn toàn, Việt Nam dứt khoát phải cùng với các nước vừa kiện vừa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn như liên kết với Hoa Kỳ, lập liên minh phòng thủ Biển Đông, vân vân, Việt Nam không có lý do gì lảng tránh việc này.
- Về những
giàn khoan ngang ngược, cũng giống như việc đường lưỡi bò nhưng phức
tạp hơn vì ranh giới chồng chéo và cũng liên quan đến Hoàng Sa - Trường
Sa, có thể phát sinh nhiều luận điểm, tuy nhiên vẫn phải kiện, và đừng
quên nếu không có sức mạnh thực tế thì cũng không đẩy được chúng đi. Nói
chung, việc kiện ra các tòa án quốc tế, dù hiệu quả ít hay nhiều vẫn
phải tiến hành, để vạch rõ chính nghĩa, vì danh dự dân tộc hoặc tạo hồ
sơ giải quyết sau này.
- Riêng Hoàng
Sa (và có thể cả Trường Sa) thì khó khăn hơn nhiều, dân đã có kiến nghị
yêu cầu nhà nước phải kiện Trung Quốc, nhưng nhà nước thì lưỡng lự, chập
chờn, không chuẩn bị gì, bây giờ quyết định không kiện gì hết (?), mà
chỉ tuyên truyền (chắc là để xoa dịu cho dân yên tâm) [theo thông tin
mới nhất thì Thủ tướng đã giao các cơ quan củng cố hồ sơ để báo cáo lãnh
đạo Đảng, Nhà nước cân nhắc việc đấu tranh pháp lý về Biển Đông; xem ở đây – BVN]! Ở đây có nhiều điều cần thảo luận.
Trước hết phải
đau lòng thừa nhận rằng việc Hoàng Sa - Trường Sa nếu kiện ra Liên Hiệp
Quốc thì khả năng thua nhiều hơn thắng. Tại sao?
Đồng ý rằng về
pháp lý công hàm Phạm Văn Đồng (trả lời Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm
1958 của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong đó họ khẳng định Hoàng Sa -
Trường Sa là của Trung Quốc) không có giá trị “mua bán”, vì người ta
không thể bán cái không có trong tay mình, vì không có sự đồng thuận của
chính phủ ở nửa nước miền Nam, hoặc vì chưa thông qua Quốc hội, vân
vân.
Công hàm Phạm Văn Đồng
Nhưng trách nhiệm của Công hàm Phạm Văn Đồng lại nguy hại ở ý nghĩa khác. Đối
với Hoàng Sa - Trường Sa công hàm Phạm Văn Đồng tuy không có giá trị
pháp lý của một giao kèo mua bán hay sang nhượng, nhưng có giá trị của một bản tuyên bố chính thức, minh
định nhận thức và lập trường của chính phủ Việt Nam, để Trung Quốc và
thế giới được rõ, rằng Hoàng Sa - Trường Sa là của Trung Quốc (đã là của Trung Quốc thì đương nhiên không phải của Việt Nam, Việt Nam chúng tôi không liên quan gì đến các quần đảo đó!)
Một người khách
quan đọc bản công hàm ấy ắt phải hiểu như thế. Nếu có kẻ nào còn mơ hồ
tưởng lầm Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam thì hãy xem thêm các bản
đồ và sách giáo khoa của Việt Nam sẽ rõ! Phạm Văn Đồng đã giúp Trung
Quốc chu đáo đến thế là cùng.
Trong công hàm
Phạm Văn Đồng không cần có nửa lời về Hoàng Sa - Trường Sa là đương
nhiên, vì đã minh định Hoàng Sa - Trường Sa là của Trung Quốc thì cũng
như các đảo Bành Hồ, Trung Sa… chứ liên quan gì đến Việt Nam đâu mà phải
đề cập? Đã của Trung Quốc, không phải của Việt Nam thì Trung Quốc cứ tự
nhiên sử dụng, cần gì đến chuyện “mua bán” hay sang nhượng?
Một sự phủ định
chủ quyền thản nhiên và sạch trơn như vậy còn tai hại hơn một giao kèo
bán đất rất nhiều, vì nếu “bán” thì trước khi bán Hoàng Sa - Trường Sa
vẫn còn là của Việt Nam, sau này còn có thể chuộc lại, nhưng khẳng định
như Phạm Văn Đồng có nghĩa là từ trước chí sau Hoàng Sa - Trường Sa
không liên quan gì đến Việt Nam cả. Chu đáo đến thế thì con cháu bây giờ
hết chỗ cựa (nếu cãi lại sẽ sẽ phạm luật estoppels).
Là người Việt
Nam dù với chính kiến nào, không ai muốn hải đảo nước mình rơi vào tay
Trung Quốc, nhưng giải pháp “khôn ngoan” muốn hạ thấp trách nhiệm của
công hàm Phạm Văn Đồng để vừa thoát khỏi ràng buộc với Trung Quốc mà vẫn
bảo vệ được uy tín cho Đảng Cộng sản e rằng bất khả thi.
Bây giờ, sau
nửa thế kỷ mới trưng các bản đồ lịch sử ra, xét về tình, thế giới có thể
thông cảm, nhưng về lý, mình đã trói mình quá chặt thì cũng khó gỡ ra,
ấy là chưa kể lẽ phải luôn thuộc về kẻ mạnh.
Tự chối
bỏ chủ quyền thì còn tai hại hơn bán chủ quyền. Vì thế, đối với Hoàng Sa
- Trường Sa kiện thì cứ kiện, nhưng chỉ có thể giải quyết trong một
giải pháp trọn gói, chống lại toàn bộ sự xâm lấn của Trung Quốc cả ở
biển đảo và trên đất liền.
Thật vậy, việc
xâm chiếm Việt Nam đâu chỉ giới hạn ngoài biển đảo? Nào ai biết đã có
bao nhiêu văn bản ký kết tạo điều kiện cho Trung Quốc chiếm dần lãnh thổ
Việt Nam, đi đôi với việc xâm lấn nhân sự vào các cấp lãnh đạo từ tỉnh
huyện đến Trung ương? Muốn thoát khỏi cái ách Trung Quốc đã quàng rất
nhiều vòng vào cổ dân tộc này, tức là muốn “Thoát Trung” chỉ có
một con đường duy nhất là từ bỏ thể chế cũ một cách thật sự, để một nhà
nước mới, một nhà nước dân chủ, mới có tư cách nhân danh nhân dân chối
bỏ những ràng buộc mà chế độ cũ đã ký kết, phương hại đến đất đai, chủ
quyền của Tổ quốc Việt Nam.
6. Thoát Trung chủ yếu là thoát về chính trị, không phải văn hóa
Lịch sử đưa đẩy
hai nước Việt Trung vào cùng một “đại gia đình Cộng sản” là tạo ra cơ
hội bằng vàng, nhốt con thỏ và con sói vào cùng một chuồng thành hai anh
em ruột, chị em ruột. Thế là toàn bộ chương trình dài hơi nhằm nô dịch
Việt Nam, biến Việt Nam thành chư hầu kiểu mới của Trung Quốc được thiết kế trên cái nền Cộng sản,
trong đó “quyền đảng” được nâng lên tối đa và “quyền dân” thực tế bị hạ
xuống tối thiểu, khiến cho hai đảng cứ tự do làm việc ngầm với nhau,
quyết định mọi việc trong quan hệ cá lớn nuốt cá bé, trong khi nhân dân
bị đứng ngoài cuộc. Vậy đây là một cuộc cờ chính trị “vĩ đại”, yêu cầu thoát Trung chẳng qua là thoát khỏi sự kìm kẹp chính trị cộng sản khủng khiếp ấy.
Trong tiến
trình ràng buộc có sử dụng sự ràng buộc kinh tế, ràng buộc tư tưởng,
ràng buộc văn hóa - xã hội, nhưng tất cả chỉ là phương tiện nhằm cái
đích nô dịch chính trị. Chính trị là cái nút thắt, cũng là nơi để chiếc
chìa khóa mở ra. Nếu hiểu lý thuyết rằng văn hóa hoặc kinh tế là nền
móng rồi dồn sức vào các lĩnh vực mênh mông là văn hóa hoặc kinh tế thì
chỉ luẩn quẩn mãi trong rừng rậm không có lối ra, có khi gây tác dụng
ngược, cuối cùng vẫn bị yếu tố chính trị thắt lại, vì chính trị nhanh
tay hơn, ma mãnh hơn văn hóa và kinh tế rất nhiều.
Thật vậy, về
văn hóa, ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam tuy có những
điều bất lợi nhưng nhìn tổng thể cũng là điều bình thường xưa nay, trong
đó có xấu có tốt, có thể điều chỉnh, có yếu tố đã trở thành sức mạnh
của Việt Nam. Thế giới có khoảng 200 quốc gia nhưng con sốnhững nền văn hóa lớn thì
ít hơn rất nhiều, mỗi nền văn hóa lớn thường tỏa rộng ảnh hưởng ra các
quốc gia xung quanh, tạo nên những vùng “địa văn hóa”, “cụm văn hóa” gồm
nhiều quốc gia lân cận. Quan hệ quốc tế hiện nay làm cho ranh giới “địa
văn hóa” mờ dần đi, ngày càng thâm nhập vào nhau một cách đa phương nên
muốn dùng độc quyền văn hóa làm công cụ nô dịch cũng không dễ dàng như
trước. Trái lại những giá trị văn hóa dù hình thành ở đâu cũng là thành quả chung của loài người để dùng chung như
ta dùng lửa, dùng điện, dùng Internet vậy. Không có gì phải mặc cảm khi
một quốc gia nằm trong cụm văn hóa Hy-La hay văn hóa Trung Hoa…
Mặt khác, vì xã
hội luôn có hai thành phần tương sinh tương khắc là nhân dân và tầng
lớp thống trị nên nền văn hóa nào cũng cấu thành bởi hai nhân tố xung
khắc ấy, vừa có mặt nhân văn tích cực của nhân dân, lại có mặt phản dân
chủ mà giới cầm quyền khéo dùng làm công cụ để nô dịch dân mình và nô
dịch cả dân nước khác, đồng thời tất cả vẫn nằm trong dòng tiến hóa từ
lạc hậu đến ngày một văn minh hơn. Khi du nhập những nét văn hóa tích
cực luôn phải thanh lọc những yếu tố nô dịch tiêu cực hoặc không phù hợp
với tập quán dân tộc mình. Điều này dân tộc Việt Nam đã làm, làm khá
thành công nên sau 1000 năm Bắc thuộc mà vẫn không bị đồng hóa. Tóm lại,
thái độ đối với văn hóa là sàng lọc, đồng hóa hoặc tẩy trừ từng phần
chứ không nhất thiết phải xử lý trọn gói. Tấm gương biết sàng lọc văn
hóa không ai bằng cụ Phan Châu Trinh, xuất thân Nho học, tiếp tận Âu Tây
mà biết sàng lọc rất trúng, vừa chống “hủ Nho” vừa chống “hủ Âu”
trở thành nhà dân chủ, nhà cách mạng đầu tiên của nước nhà [*]. Cụ
chẳng vì chuộng Âu mà phải thoát Á, vì khi đã lệch về một phía thì dễ
thiên vị, quên sàng lọc mà tôn sùng cả cái xấu của người ta.
Điều oái oăm
với văn hóa Việt Nam là trong khi dòng chảy văn hóa đang từng bước tự
hoàn thiện thì có sự du nhập “một nền văn hóa trọn gói” nặng tính ngoại
lai và áp đặt, là “văn hóa vô sản” thực chất là “văn hóa cộng sản”, “văn hóa đảng”.
Nói văn hóa Cộng sản có tính “trọn gói” vì nó tách biệt hẳn ra thành
một khối, không kế thừa, dính vào đâu là nó hủy diệt các giá trị truyền
thống ở đó, nên không có khả năng hòa đồng vào bất kỳ nền văn hóa nào.
Vì bản chất là phi dân chủ nhưng lại nhân danh dân chủ nên văn hóa cộng sản cộng hưởng ngay với chất mị dân của chủ nghĩa thân dân phong kiến,
mà thực chất là vương quyền áp đặt, tôn sùng minh quân, đồng thời làm
mất gốc dân chủ và tương thân tương ái của văn hóa bản địa, thay bằng
thứ tình yêu giai cấp vừa chật hẹp giữa con người lại vừa mở rộng phi lý
vượt biên cương.
Chính nền chuyên chính độc đảng toàn trị Cộng sản đã làm cho quan hệ “quỳ lạy-xin cho”
tiêu cực của văn hóa phong kiến trỗi dạy và làm tha hóa xã hội đến mức
bệnh hoạn. Tôi hiểu đấy chính là lý do khiến nhà báo Lê Phú Khải phải
kịch liệt phê phán thứ “văn hóa quỳ lạy” đang chế ngự xã hội. Một
nét tiêu cực của văn hóa phong kiến như thế tưởng đã qua đi, nay gặp
môi trường mới thích hợp lại nảy nở thành một tệ nạn, chứ đạo Nho chỉ
khuyên người ta đứng thẳng, không khuất phục trước uy vũ (uy vũ bất năng
khuất) và con người phải biết tự trọng thì người khác mới trọng mình
(nhân tự trọng nhi hậu nhân trọng chi, nhân tự khinh nhi hậu nhân khinh
chi), Khổng giáo không khuyên người ta quỳ lạy.
Văn hóa Khổng
Mạnh vừa sinh ra Phan Châu Trinh rất dân chủ, vừa sinh ra tên vua Khải
Định thích dân quỳ lạy. Cho nên Cụ Phan viết thư hạch tội vua Khải Định 7
điều, trong đó tội thứ nhất là quá tôn quân quyền, cậy quyền thế mà ép dân, tội thứ nhì là không công bằng và tội thứ ba chính là “Chuộng sự quỳ lạy”!
Ngày nay một lực lượng vũ trang ăn lương của dân mà coi dân như cỏ rác, ngang nhiên thách thức “chỉ biết còn Đảng còn mình”,
tất nhiên nịnh trên mà nạt dưới, thì chắc chắn người đưa ra khẩu hiệu
rất “quỳ lạy” đó không hề đọc sách Khổng Mạnh mà chỉ nhiễm “văn hóa Đảng” thôi.
Nhiều người dân
vào đồn công an bị đánh đến phải quỳ lạy, nơi “quỳ lạy” ấy không hề có
đạo Khổng, chỉ có “6 điều Bác dạy” (mặc dù lời dạy cũng có câu “với dân
phải kính trọng, lễ phép”).
Thuở nước nhà
sơ khai, các trí thức chịu ảnh hưởng đạo Nho và văn hóa Trung Hoa rất
nhiều, nhưng những Giang Văn Minh, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trãi, Lý Thường
Kiệt đã dùng chính chữ Nho làm vũ khí chống lại Tàu, sức mạnh Nho giáo
đã thành sức mạnh dân tộc. Trong khi Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc lại
dùng chữ Nho để theo Tàu phản bội Tổ quốc, còn khối kẻ hàng Tàu bây giờ
đâu có biết một chữ Nho bẻ làm đôi? Vậy hèn mạt hay anh hùng ít khi do
nền văn hóa, chủ yếu do nhu cầu chính trị, vì chính trị gắn với quyền
lợi và nhu cầu sinh tồn.
Ngay chuyện bây
giờ, khi ta nói sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam phải lệ thuộc Tàu là do Ý
thức hệ cộng sản thì cũng chỉ đúng một phần. Đâu có phải cứ hai nước
cùng chung Ý thức hệ Cộng sản thì thôn tính nhau? Vấn đề là nước Cộng
sản nhỏ muốn tiến hành chiến tranh, rồi lại muốn chống xu thế dân chủ để
tiếp tục nắm quyền độc trị thì phải dựa vào nước Cộng sản lớn giúp đỡ,
nước lớn vốn rắp tâm xâm lược nên sử dụng sự giúp đỡ làm cái bẫy để bắt
Đảng Cộng sản nhỏ bán dần chủ quyền, mặc dù đến nay cả hai bên chẳng ai
xây dựng chủ nghĩa Cộng sản gì hết, chẳng ai còn tin vào cái bánh vẽ
“thế giới đại đồng”. Vậy bản chất sự lệ thuộc Tàu là do ràng buộc
chính trị trong môi trường Cộng sản, như một hệ quả đau đớn của việc
chọn con đường Cộng sản, chứ không phải do sự thấm nhuần Ý thức hệ.
Ý thức hệ chỉ là yếu tố bắt nguồn lúc đầu. Những kẻ theo Tàu hiện nay
là do nhu cầu chính trị, do quyền lợi chứ chẳng vì lý tưởng giai cấp vô
sản gì hết.
Lại so sánh chế
độ miền Bắc và chế độ miền Nam trước đây về hai mặt Thoát Trung và
Khổng học. Miền Nam còn giữ Khổng học rất nhiều, từ sách vở đạo đức, đến
quan hệ xã hội nhưng họ dứt khoát Thoát Trung, biểu hiện ở việc chống
Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa năm 1974, và quy định một số nghề người Hoa
không được làm để phòng người Tàu chi phối kinh tế và quốc phòng.
Trong khi miền
Bắc khi đó bài trừ Khổng học, coi Khổng học là phong kiến phản động nên
phá hết văn chỉ, đem câu đối làm cầu ao, chuồng lợn, đấu tố Nho học, thì
lại ôm chân Tàu rất rõ, dập khuôn Tàu, phụ thuộc Tàu đến nỗi sinh ra
nguy cơ Bắc thuộc hiện nay. Vậy không phải chống Khổng học thì Thoát
Trung mà có khi ngược lại, vì nhiều nét của Khổng học đã được người Việt
đồng hóa để thành vốn liếng văn hóa của chính người Việt.
Cuối cùng, xin
cảm ơn việc khơi ra cuộc thảo luận Thoát Trung, đã huy động được sự đóng
góp từ nhiều phía, làm cho một vấn đề rất hệ trọng được sáng ra, lần
đầu tiên được đề cập một cách hệ thống, thiết tưởng là một sáng kiến
đóng góp rất hữu ích cho công cuộc Thoát Trung hiện nay.
7. Nghĩ về mấy ngụy biện trong việc chống Tàu xâm lược
* Ngụy biện về đoàn kết và phân ly:
Như quy luật
của muôn đời, sự đấu tranh để dân chủ hóa luôn luôn là cuộc đấu tranh
giữa giới cai trị và giới bị trị, giữa chủ và thợ, nước nào cũng có, ở
những mức độ khác nhau. Nhưng Đảng Cộng sản muốn phủ định, coi như cuộc
đấu tranh ấy không có trong xã hội ưu việt này, nên dùng khẩu hiệu “ý
Đảng lòng dân” để đúc hai khối “cai trị và bị cai trị” thành một khối
đồng nhất (nhưng đầy mâu thuẫn bên trong). Dân mà “có ý kiến khác” tức
tách khỏi khối đúc ấy thì không phải là dân, Đảng coi là kẻ xấu hay là
địch đấy!
- Nay trước tình trạng bị nước Cộng sản lớn xâm lược đang xuất hiện ngụy biện: “Bây
giờ phải tập trung chống xâm lược, cả nước phải một lòng, đứng dưới sự
lãnh đạo mà chống giặc, trong nước mà còn đấu tranh với nhau là mắc mưu
chia rẽ của phản động đấy!”. Lời hô hào nghe cảm động ghê, đoàn kết cả với kẻ nội xâm, nội gián sẵn sàng “mở cửa thành” cho giặc hả?
- Lập trường đúng đắn của Đảng ta là làm bạn với tất cả mọi người, không liên minh với nước này để chống lại nước kia! Nghe
sao đạo đức quá, thế sao trước đây lại dựa hẳn vào Liên Xô - Trung Quốc
để đánh “Mỹ-Ngụy”, sao bây giờ chỉ liên kết chiến lược toàn diện, thiết
lập cả đường dây nóng với quân xâm lược, để đề phòng nhân dân ư?...
Ngụy biện này
là để giải thích vì sao Việt Nam không liên minh chiến lược với Hoa Kỳ,
nhưng nội bộ Đảng giải thích với nhau nếu liên minh với Hoa Kỳ thì mất
Đảng! Vẫn biết nếu liên minh với Hoa Kỳ thì sẽ không mất nước, nhưng thà
mất nước còn hơn là mất Đảng! Thế là rõ!
- Nhiều nhà
nghiên cứu, bình luận cứ phát hiện “con đường cho Việt Nam”, “lối thoát
cho Việt Nam”, “giải pháp tối ưu cho Việt Nam” mà không biết rằng bây
giờ làm gì có “Việt Nam” như một khối thống nhất. Như ông Lê Hồng Hà
nhận xét “Đảng bây giờ chỉ còn mỗi chức năng là cản trở sự phát triển của dân tộc”,
vậy thì bài toán cho chính quyền Việt Nam và bài toán cho nhân dân Việt
Nam là hai bài toán đáp số ngược nhau, đáp số tối ưu cho bên này sẽ là
tai họa cho bên kia, làm gì còn khái niệm “Việt Nam” chung chung?
* Ngụy biện về cương và nhu
Bất đắc dĩ phải
tuyên bố công khai mâu thuẫn với Trung Quốc (về lãnh hải thôi, còn
những mâu thuẫn khác vẫn giấu biệt), nhưng không cho dân bộc lộ sự phẫn
nộ, mà khuyên “phải bình tĩnh, chuyện lâu dài không nóng vội, mâu
thuẫn như anh em trong nhà, mình phải chung sống lâu dài với nước bạn,
bát nước đổ đi khó bốc lại, ta cần mềm dẻo giữ hòa bình để phát triển
kinh tế…”.
Ai cũng biết cương quá hay nhu quá đều không tốt, nhưng lúc cần nhu lại cương, lúc cần cương lại nhu thì thật quái đản.
Có một danh ngôn “kẻ nào chấp nhận nhục nhã để tránh chiến tranh cuối cùng sẽ lãnh đủ cả hai thứ đó”.
Có cứng rắn, không sợ chiến tranh mới tránh được chiến tranh. Chính sự
hèn nhát là thủ phạm rước chiến tranh vào nhà! Còn tình nghĩa anh em ư,
nó đập vào mặt, nó nhục mạ cả dân tộc, nó xâm lăng rành rành, nó tè vào
cái bát nước hữu nghị, còn anh em nữa ư?
* Ngụy biện về lòng thương dân
Người ta đang giải thích phải chịu nhún nhường Tàu Cộng hết cỡ vì sợ đánh nhau thì nhân dân khổ! Chỉ thương dân thôi!
Ôi chao, cảm ơn! (Giá nói 50 năm trước đây thì hơn).
Sao một bảng
thống kê về điều tra, chỉ xếp nhân dân Việt Nam thuộc loại hạnh phúc thứ
nhì thế giới thôi nhỉ, chắc vì lúc ấy cơ quan điều tra chưa được “quán
triệt” chủ trương rất cảm động này.
H. S. P. (2-7-2014)
Tác giả gửi BVN.
[*] “Nhân vật Phan Châu Trinh và những bài học cho hôm nay/ Sàng lọc và kết hợp văn hóa Đông Tây”:http://www.hasiphu.com/baivietmoi_12.html
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2014/07/
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2014/07/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét