Ông Trương Trọng Nghĩa. (Hình: Facebook) |
Nguyễn Hưng Quốc
Qua báo chí, trong mấy ngày vừa
qua, tôi bắt gặp nhiều lời phát biểu rất can đảm và sáng suốt của một số
đại biểu Quốc Hội trong nước.
Trước hết là bài phát biểu của bà Võ Thị Dung tại phiên họp Quốc Hội
vào sáng ngày 28 tháng 3. Bà Dung nêu lên “7 điều lo và 3 điều ước.”
Bảy điều lo ấy, theo thứ tự là:
Thứ nhất, nạn ngoại xâm từ Trung Quốc, kẻ, trước đây đã chiếm Hoàng
Sa và Trường Sa, nay lại bồi đắp các đảo nhân tạo ở Trường Sa để mưu
toan lấn chiếm cả Biển Ðông của Việt Nam.
Thứ hai là vấn đề tham nhũng, lót tay, lại quả, phong bì rất phổ biến
tại Việt Nam. Bà Dung gọi đó là nạn “nội xâm” hay “quốc nạn.”
Thứ ba là sự suy thoái về đạo đức xã hội. Theo bà Dung, đạo đức giả
càng ngày càng lấn át đạo đức thật; chủ nghĩa thực dụng càng ngày càng
lan tràn; ở đâu cũng bắt gặp sự tham lam, ích kỷ, dối trá, lừa đảo, cướp
giật; an toàn thực phẩm bị đe dọa nghiêm trọng.
Thứ tư là sự tụt hậu về kinh tế: Năng suất lao động thấp, tài nguyên thiên nhiên bị hủy hoại, ngân sách thiếu hụt trầm trọng.
Thứ năm là nợ công càng ngày càng chồng chất, việc tiêu xài quá lãng phí.
Thứ sáu là văn hóa càng lúc càng suy đồi, các giá trị truyền thống bị mai một hoặc xuống cấp.
Thứ bảy là hiện tượng thiếu kỷ cương và kỷ luật trong việc điều hành
của bộ máy công quyền làm giảm lòng tin của dân chúng và cũng giảm động
lực phát triển của xã hội.
Còn ba điều ước của bà là: Một, bộ máy công quyền thực sự dân chủ;
hai là đất nước bình yên và phát triển; và ba là văn hóa ngày càng tốt
đẹp.
Bài phát biểu 7 phút của ông Trương Trọng Nghĩa tại phiên họp sáng
ngày 1 tháng 4 cũng khá hay. Cũng giống bà Võ Thị Dung, ông Nghĩa cho
rằng Việt Nam hiện đang phải đối đầu với cả ngoại xâm lẫn nội xâm. Không
nêu đích danh kẻ ngoại xâm là Trung Quốc, ông Nghĩa chỉ đặt vấn đề: cần
phải xác định lại các khái niệm “ta,” “bạn” và “thù.” Trước đây, dựa
trên ý thức hệ Mác-xít, người ta xem “bạn” là tất cả các quốc gia cùng
theo chủ nghĩa xã hội và “thù” là các quốc gia tư bản - thường được gọi
là “đế quốc.” Tình hình chính trị hiện nay khác hẳn. Theo ông Nghĩa,
hiện nay, “Bạn là những ai ủng hộ nước Việt Nam độc lập chủ quyền, giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Còn thù là những thế lực thù địch
cản trở đổi mới, cản trở phát triển, xâm hại lợi ích quốc gia dân tộc,
lợi ích của nhân dân, làm cho nước ta suy yếu, lệ thuộc nước ngoài, chia
rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, phá hoại an toàn và an ninh đất nước.”
Ông Nghĩa nhấn mạnh, việc xác định không đúng ta và bạn-thù có thể xảy
ra tình hình là thay vì thêm bạn bớt thù thì lại thêm thù, bớt bạn hoặc
coi bạn là thù và coi thù là bạn. “Thay vì đánh vào địch thì lại đánh
vào ta, thay vì tăng cường đoàn kết thì lại làm suy yếu khối đại đoàn
kết dân tộc.” Không đi vào chi tiết, nhưng qua lời phát biểu dẫn trên,
chúng ta đều hiểu ông Nghĩa xem ai là “bạn” và ai là “thù” của Việt Nam.
Về nội xâm, ông Trương Trọng Nghĩa cũng nói đến tham nhũng. Tuy
nhiên, ông nhấn mạnh nhiều hơn vào ý này: Phải làm sao cho đất nước trở
thành một nơi đáng sống. Ông ghi nhận hiện nay nhiều trí thức giỏi không
muốn về Việt Nam làm việc trong khi nhiều người khác, kể cả các doanh
nhân và cán bộ, tìm cách ra nước ngoài định cư. Tại sao? Ông giải đáp:
“Không phải vì nghèo về tiền mà cảm thấy không vui, không an toàn về
pháp lý, các quyền tự do dân chủ không đảm bảo đầy đủ, lo sợ đất nước bị
lệ thuộc. Ðiều này ai cũng thấy và cũng biết.”
Cuối bài phát biểu, ông Trương Trọng Nghĩa nhắc lại hai câu thơ của
Tố Hữu được sáng tác từ năm 1967 về chuyện Mỵ Châu và Trọng Thủy: “Nỏ
thần vô ý trao tay giặc/Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”; rồi ông sửa lại cho
hợp với hoàn cảnh hôm nay: “Nỏ thần chớ để sa tay giặc/Mất cả đất liền,
cả biển sâu.” Qua chi tiết “mất cả đất liền, cả biển sâu,” chúng ta có
thể hiểu ngay kẻ nào bị ông Nghĩa xem là “giặc.”
Bài phát biểu cuối cùng tôi rất tâm đắc là của ông Lê Văn Lai. Liên
quan đến Biển Ðông, ông Lai “ngạc nhiên” và không đồng ý với các báo cáo
của chính quyền Việt Nam khi cho, ở đó, Việt Nam vẫn “đảm bảo chủ
quyền, lợi ích quốc gia.” Theo ông, cách đánh giá ấy không đúng. Trên
thực tế, “người ta xây sân bay, kéo pháo hạm, đưa máy bay tiêm kích, o
ép ngư dân, người ta sắp tuyên bố những điều xâm phạm chủ quyền như dùng
các chuyến bay cắt ngang các chuyến bay truyền thống được quốc tế công
nhận.” Ông thú nhận là ông tự “ép suy nghĩ” của mình để đồng thuận với
cách đánh giá của chính phủ nhưng “nói thật là tôi ép không nổi.” Lý do:
“Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của chúng ta tần suất 20 năm một lần.
Năm 1956 chiếm Ðông Hoàng Sa. Năm 1974, lấy Tây Hoàng Sa. Năm 1988 lấy
đảo Gạc Ma. Năm 2014 kéo giàn khoan vào biển Ðông và sau đó tần suất dài
hơn, dày hơn để xâm lấn chủ quyền. Trong khi đó chúng ta ngồi đây và
yên bình đánh giá là đảm bảo chủ quyền quốc gia. Liệu điều đó có công
bằng? Ðánh giá như thế thì chúng ta đưa ra quyết sách, sự phản đối, đối
kháng đã đủ chưa, phù hợp không?” Ông Lai trăn trở.
Với những lời phát biểu của ba đại biểu Quốc Hội dẫn trên, tôi chỉ xin nhận xét vắn tắt:
Thứ nhất, cả ba đều rất can đảm vượt qua những điều cấm kỵ lâu nay để
nói lên những lời tâm huyết của những kẻ không nguôi đau đáu về hiện
tình của đất nước. Can đảm ở chỗ họ thẳng thắn xem Trung Quốc là “giặc”
và xem tham nhũng là một “quốc nạn” của Việt Nam.
Thứ hai, họ nhận diện được chính xác và đầy đủ các hiểm họa mà Việt Nam đang phải đối đầu.
Ðiều duy nhất chúng ta có thể bổ sung vào những lời phát biểu của họ
là một vấn đề liên quan đến nguyên nhân chính gây ra các hiện tượng ấy:
sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam. Không thẳng thắn nhìn nhận
nguyên nhân này, người ta khó tìm được biện pháp đúng đắn để giải quyết
các vấn đề họ nêu lên. Tuy nhiên, tôi biết, đòi hỏi như vậy là quá nhiều
so với tư cách đại biểu Quốc Hội của họ. Dù sao, so với trước, những
lời phát biểu can đảm và sáng suốt của họ cũng là một bước tiến bộ rất
đáng kể.
Nguyễn Hưng Quốc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét