Tô Văn Trường
Trong
y khoa không có bệnh vô cảm mà chỉ có trạng thái thờ ơ với ngoại cảnh
và bệnh lãnh cảm (thường chỉ về tình dục). Theo nghĩa thường dùng hiện
nay, thì nên gọi đúng tên là “thói vô cảm”, để chỉ một lối sống, thói
quen dần dần trở thành như một căn “bệnh”.
Hàng ngày, báo chí, truyền hình của chúng ta đưa quá nhiều thông
tin về các vụ phạm pháp, có những vụ đặc biệt nghiêm trọng làm xôn xao
dư luận, gây xốc cho tất cả mọi người. Xem và đọc những tin ấy, người ta
căm phẫn đòi trừng phạt nghiêm khắc kẻ gây ra tội ác, có người còn muốn
tự tay băm vằm kẻ thủ ác cho hả giận. Rồi người ta phàn nàn rằng: ”Luật
pháp của chúng ta chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe. Cần phải bổ sung,
tăng khung hình phạt…!” Nhưng cũng có những kẻ không gây ra tội ác,
không thể bị pháp luật trừng phạt, nhưng hành vi của họ vẫn bị mọi người
chê trách và lên án. Đó là những kẻ mắc bệnh “vô cảm”.
Ở Việt Nam hiện nay, bệnh vô cảm gần như trở thành một căn bệnh xã
hội có sức lây nhiễm rất cao. Đối tượng mắc bệnh này rất rộng rãi, đủ
loại người từ quan chức lãnh đạo đến thường dân, thậm chí bao gồm cả
những người có học, hiểu biết rộng, tôn trọng luật pháp tức là những
người thuộc loại “tử tế”. Biểu hiện của bệnh vô cảm cũng thật đa dạng.
Nhẹ nhất là người mắc bệnh, không biết nói lời “xin lỗi” khi làm sai và
“cám ơn” khi được giúp đỡ. Họ tiếc một tràng vỗ tay khi xem xong một
tiết mục thể thao, văn nghệ (có lẽ chẳng ở đâu như nước mình tiếng vỗ
tay trong khán phòng thường rời rạc và tẻ nhạt đến thế!)
Hình minh họa.
Bệnh vô cảm nặng hơn khi “người bệnh” quên đi trách nhiệm cứu
người, giúp người bị nạn. Chúng ta ai cũng từng chứng kiến cảnh những
đám đông trên đường phố khi có vụ tai nạn hoặc va chạm. Người lao vào
cứu giúp thì ít, kẻ hiếu kỳ xúm vào xem rồi lặng lẽ bỏ đi thì nhiều! Có
kẻ vô cảm đến mức độ dã man, vô lương tâm là lợi dụng cơ hội cướp đoạt
tài sản của người bị nạn. Tệ hại hơn nữa, là có kẻ còn lạnh lùng dùng
điện thoại di động quay cảnh một người bị xe cán cụt chân, nát thây rồi
tung cảnh quay ấy lên mạng.
Người vô cảm
thường là nhút nhát, ngại phiền phức, họ không dám tố giác, ngăn chặn kẻ
gây ra tội ác. Thậm chí chính họ lại gây ra tội ác một cách vô thức như
có trường hợp lái xe ô tô ấn còi inh ỏi khi biết trước đầu xe của mình
là hai mẹ con đèo nhau bằng xe đạp, kết cục bi thảm là hai mẹ con bị
giật mình hoảng hốt, cháu bé ngã, bị ô tô cán chết! Trong trường hợp
này, lái xe đã bị xử phạt, nhưng nếu người lái xe ấy biết cảm thông,
chia sẻ nỗi vất vả với mọi người xung quanh cũng đang chịu cảnh kẹt xe
thì đâu đến nỗi! Rồi chuyện đây đó, bác sỹ, y tá chểnh mảng nhiệm vụ,
kém trách nhiệm khi cấp cứu làm người bệnh bị chết oan.
Ngay cả việc trong lớp học, có các trường hợp thầy giáo cứ giảng
bài đại khái cho hết giờ, còn để sức về “dạy thêm”, còn trò thì ngủ gật,
nói chuyện riêng, nhắn tin…Ở đây, những thầy và trò ấy đều mắc bệnh vô
cảm với nhau mà lẽ ra họ phải là những người cảm thông với nhau nhất.
Một dạng bệnh vô cảm còn biến chứng trong đe dọa những giá trị đạo
đức cao cả thiêng liêng nhất của dân tộc “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”. Dư luận đã không ít lần xôn xao, phẫn nộ
trước hành động “đánh bài chuồn” của một nhà tài trợ vàng, kim cương gì
đó, sau khi đã đăng đàn hứa hẹn “nổ” như pháo, quảng cáo thương hiệu cá
nhân mình, công ty mình. Có những người đã vô cảm đến mức lợi dụng các
hoạt động từ thiện, cứu trợ nhân đạo để kiếm chác cả tiếng tăm lẫn tiền
bạc! Nhưng chính hành động vô cảm, vô trách nhiệm ấy rất đáng xấu hổ.
Suy ngẫm về các loại vô cảm, thì dễ thấy hơn nguyên nhân
và giải pháp, ở từng quốc gia, dân tộc, trong từng thời kỳ
lịch sử, thậm chí đối với từng người. Có thể nhận diện một
số loại vô cảm như:
-Vô cảm là một sự đồi bại nhân cách, và có vô cảm là một căn bệnh cần thông cảm và giúp chữa trị;
-Vô cảm toàn bộ và toàn diện, kể cả những trường hợp vô
cảm với chính bản thân mình, vô cảm với cả thành công và thất
bại, với cả niềm vui và nỗi buồn, và có vô cảm từng phần,
trong từng lĩnh vực, đối với từng vấn đề;
-Vô cảm đối với cộng đồng, kể cả đối với vận mệnh của
dân tộc, của đất nước. Vô cảm đối với đau thương, bất hạnh của
người khác, đi như bóng liền hình với sự đặc biệt nhậy cảm,
nhậy cảm đến riết róng, về những chuyện của bản thân, về
lợi, danh, quyền, chức của chính mình;
-Vô cảm rất tỉnh thức, rất phô phang, hãnh diện về sự vô
cảm của mình, và có sự vô cảm cố ý hoặc vô tình tiềm ẩn,
tự dấu đi, ngấm ngầm tác động;
-Vô cảm thụ động, dẫn đến phủi tay chẳng làm gì, và có
sự vô cảm chủ động, hăm hở truyền bá và thể hiện sự vô cảm
bằng những "việc làm vô cảm" gây hại cho cộng đồng, cho người
khác.
Xã hội từ lâu đã chứng kiến sự nhạy cảm đẹp đẽ và sự vô
cảm tồi tệ của con người, đã chứng kiến sự xấu xa đáng ghê
tởm và sự cao thượng đáng tôn thờ của con người. Chế độ chính
trị, kinh tế, xã hội, nền giáo dục quốc gia, truyền thống gia
đình, môi trường vi mô của sự sinh sống có ảnh hưởng đến sự
vô cảm, nói chung là lớn, nhiều ít đến đâu tùy từng trường
hợp, nhưng không sản sinh ra vô cảm, mà chỉ làm cho vô cảm nặng
hay nhẹ, đông người mắc phải hay không đông người mắc phải.
Dửng dưng, thờ ơ, vô cảm thường được ghép vào hội chứng “Makeno”
(mặc-kệ-nó)! Nếu “mổ xẻ” căn bệnh "vô cảm", thì đó chính là sản phẩm của
sự sa sút của đạo lý xã hội. Mà sa sút đạo lý xã hội lại là biểu hiện
của sự đánh mất niềm tin vào công lý, vào chân lý. Cội nguồn của cái đó
là sự nói dối đã trở thành một căn bệnh xã hội, thấm vào từng đường gân
thớ thịt của cơ thể xã hội do một giáo điều xơ cứng và tai hại đã chuyển
thành kinh nhật tụng và hàng ngày được rao giảng bằng mọi cách có thể
đắp vào tai, vào mắt mọi người.
Người càng ít có điều kiện nắm bắt thông tin nhiều chiều càng trở
thành nạn nhân của mạng lưới tuyên truyền này, như con ruồi mắc vào lưới
nhện, càng giãy giụa càng bị thít chặt, đến một lúc trở thành con mồi
của một cơ chế chưa tìm thấy lối ra. Đúng hơn là không dám tìm lối ra
khi mà "chân trời” vẫn mở ra trước mắt. Ở đây có sự vô cảm của phường
"giá áo túi cơm", có sự vô cảm của người sống trong vỏ ốc (từ dùng của
đại văn hào Nga Tshecop), những "trí thức trùm chăn", sự vô cảm của
người thiếu trách nhiệm với xã hội. Nhưng nói chung, đáng sợ nhất là của
những người mất niềm tin vào xã hội, chỉ biết "tự cứu lấy mình", một
mệnh đề rất thiển cận đã từng được tụng ca như là một cứu cánh!
Tóm lại, có nguyên nhân và giải pháp khắc phục vô cảm chung
cho một đất nước trong một thời kỳ, cũng có nguyên nhân và
giải pháp khắc phục cho từng loại vô cảm, từng người vô cảm.
Có nguyên nhân và giải pháp cơ bản, lâu dài khắc phục vô cảm,
cũng có nguyên nhân và giải pháp trực tiếp, trước mắt khắc
phục vô cảm. Cần nói, viết và làm những điều chung, cũng cần
nói, viết và làm những điều riêng.
Đã đến lúc phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, tìm hiểu cội nguồn,
nguyên nhân sâu sa của căn bệnh vô cảm đang có nguy cơ bùng phát và lan
truyền rộng rãi.
Tô Văn Trường
0 nhận xét:
Đăng nhận xét