Ads 468x60px

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Huyền tích về Quốc Mẫu của người Việt

Tượng Mẫu Mẹ Âu Cơ
Nguyễn Thế Lượng
Dọc theo tả ngạn dòng sông Đà và sông Thao Việt Nam, từ bao đời nay, cư dân nông nghiệp những vùng này vẫn lưu truyền nhau những huyền tích, truyền thuyết về hình tượng người Mẹ, Mẫu, người đã sinh ra bọc trăm trứng và 18 đời vua Hùng.
Trong những câu chuyện dân gian, hòa vào không gian huyền thoại thấm đẫm giá trị nhân văn, mỗi người con đất Việt sẽ thêm yêu, thêm tự hào về nòi giống Tiên Rồng…
Đền Quốc Mẫu nằm ở giữa cánh đồng lúa phì nhiêu của xã Hiền Lương, ven quốc lộ 32C. Ngôi đền tọa lạc dưới gốc đa cổ thụ quanh năm xanh tốt. Xưa kia, ngôi đền được nhân dân xã Hiền Lương xây bằng chất liệu mật mía, trải qua chiến tranh, ngôi đền vẫn không hề bị phá hủy. Ngày nay, đền được xây dựng và tu bổ khang trang hơn, là nơi để du khách thập phương viếng thăm.
Tương truyền vợ chồng Đế Lai ở động Lăng Xương (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy Phú Thọ ngày nay) sinh được người con gái đặt tên là Âu Cơ. Khi Âu Cơ cất tiếng khóc chào đời thì hương thơm tỏa ngát, trên trời có mây lành che chở, điềm báo “Tiên nữ giáng trần”.
Lớn lên Âu Cơ ngày càng xinh đẹp, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Âu Cơ được Lạc Long Quân kén làm vợ và đưa về núi Nghĩa Lĩnh, sau đó sinh ra bọc trăm trứng nở ra một trăm người con trai. Khi các con lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên duyên phận đến đây đã hết”. Hai người bàn định chia đôi số con để người lên rừng, người xuống biển nhằm gây dựng mở mang non sông bờ cõ.  Lạc Long Quân đưa 50 người con về miền biển làm nghề chài lưới, Âu Cơ đưa 49 người con lên núi khai phá rừng hoang, để lại người con trưởng làm vua, 18 chi đời đều gọi Hùng Vương. Mẹ Âu Cơ cùng 49 người con lên miền ngược thấy đất Hiền Lương phong cảnh tươi đẹp, sơn thủy hữu tình nên đã chọn làm nơi dừng chân khai sơn phá thạch. 
Du khách thập phương viếng thăm đền Quốc Mẫu
Trong đền còn có đầy đủ thư tịch nói rằng: Hành trình Mẹ Âu Cơ đưa 50 người con đi từ hạ lưu sông Hồng cứ theo con sông mà đi ngược lên. Người thì xuống sông mò bắt tôm cá, người lên bờ sông làm nghề trồng cấy…Họ ở lại dần trên đường đi. Và cuối cùng còn ít người con và Mẹ Âu Cơ đến nơi đây (Nay là xã Hiền Lương- Hạ Hòa- Phú Thọ) làm trại và ở lại sinh cơ lập quán tại đây.
Rồi đến một đêm, Mẹ mơ thấy Tiên ông bảo rằng: “ Ngày mai con phải đi về phương Nam gặp tiên”. Tỉnh giấc Mẹ đi về phương Nam, đến chân một trái núi nhìn lên Mẹ thấy trái núi như một ngai vàng. Bỗng Tiên ông xuất hiện tay cầm gậy, tóc trắng râu dài, xung quanh mây vần vũ. Tiên ông bảo rằng: “ Ngọc Hoàng sai con xuống hạ giới này sản sinh ra một giống người. Nay đã đông đàn dài lũ, chúng đã biết làm ăn sinh sống. Vậy đến ngày mùng 7 tháng giêng này con phải về trời theo lệnh vua cha nghe con, trước khi về trời lên núi Nỏ ta cho người đón”.
Nói rồi, Tiên hòa vào đám mây biến mất. Mẹ Âu Cơ bỗng bừng tỉnh, bà thắp một nén nhang và quay về nơi ở. Nay dãy núi đó gọi là núi Ông (Thuộc địa phận xã Xuân Áng- Hạ Hòa- Phú Thọ). Rồi đến tết năm đó, Mẹ cho gọi đông đủ con cháu trong vùng về ăn tết, thật vui vẻ, thật to với nhiều trò chơi hấp dẫn.
Bàn thờ vua cha Ngọc Hoàng trong đền Mẫu
Sáng ngày mùng 7 tháng giêng, Mẹ Âu Cơ dặn các con ở nhà chăm chỉ làm ăn và phải thương yêu lấy nhau, Mẹ lên núi ít ngày hái thuộc. Thế rồi, Mẹ đi theo hướng Tây lên núi Nỏ, gặp một khe đá, mẹ đi ngược theo triền đá, khi mặt trời lên bằng lẩy, Mẹ cũng vừa thấm mệt, bỗng nghe thấy có tiếng rúc rích cười. Thì ra là một bầy tiên nữ đã mang xiêm váy xuống đón mẹ. Một tiên nữ quỳ lạy trước Mẹ thưa rằng: “Chúng con tuân lệnh Ngọc Hoàng về đây đón Mẹ. Mời Mẹ xuống ao tắm và thay váy áo để về trời cho kịp”.
Các tiên đã đem cả áo từ trời xuống cho Mẹ tắm và thay. Dòng nước Mẹ Âu Cơ tắm chảy xuống chân núi, tạo thành một con suối. Người đời sau gọi đó là Ao Trời- Suối Tiên là như vậy (Ngày nay thắng cảnh này thuộc địa phận xã Quân Khê- Hạ Hòa- Phú Thọ). Sau khi thay xiêm áo, Mẹ giữ lại dải lụa đào và ngước nhìn về phía chân núi xa xa. Nơi đó Mẹ đã nuôi dạy cháu con và gắn bó cả cuộc đời. Khi theo các tiên nữ bay về trời, Mẹ Âu Cơ cố bay lượn thật thấp để nhìn thấy cháu con và nơi ở lần cuối. Bất thần, Mẹ thả dải khăn đào xuống như để lại tình thương yêu vô bờ cho con cháu. 
Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ được tổ chức
vào ngày 7 tháng Giêng hàng năm
Con cháu đang vui chơi, bỗng trời tối xầm, bão tố nổi lên. Rồi một dải lụa đào bay lượn trên không, bay mãi rồi từ từ rơi xuống ôm lấy cả ngôi nhà và đàn cháu con đang nhảy múa. Ai cũng hiểu: Mẹ đã về trời ! Đàn con thắp nhang cầu nguyện cho Mẹ rồi họ gập dải khăn của Mẹ đặt lên bàn thơ. Tại đây, sau này con cháu đã dựng đền thờ Mẹ. Từ đó đến nay, dân trong vùng cứ đến mùng 7 tháng giêng lại làm lễ linh đình, tưởng nhớ Mẹ tại đền Mẫu Âu Cơ và bao giờ cũng đem dải lụa đào trải trên ngọn cây đa cổ thụ tại đền để ghi nhớ công ơn cao dầy của Mẹ Âu Cơ.
Đền Mẫu Âu Cơ là nơi hội tụ những huyền tích về người Mẹ của muôn dân đất Việt, là điểm đến tâm linh trong hành trình về cội nguồn. Về Hiền Lương viếng thăm đền Mẫu, được nghe kể về những câu chuyện linh thiêng của Mẫu Mẹ. Các cụ cao tuổi bóng dáng Mẫu linh thiêng với ơn đức to lớn luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày.
Dâng lễ lên Tổ Mẫu vào ngày hội
Tôi đã được nghe họ kể rất nhiều chuyện về việc hiển linh của Mẫu từ việc con gấu trên núi bước vào Đền leo lên cả khám thờ mà không làm đổ vỡ bất cứ một vật dụng nào đến chuyện ngày khởi công trùng tu, tôn tạo khu di tích cứ mỗi khi sắp tiến hành một công đoạn xây dựng quan trọng lại có con rắn trắng chẳng hiểu từ đâu bò ra dạo khắp một vòng như để kiểm tra; tất cả những vụ làm ăn gian dối, trộm cắp trong khu di tích cuối cùng đều phải trả giá…
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, giặc giã và thiên tai, ngôi đền cổ xưa không còn, song qua những lần bảo tồn tôn tạo nó vẫn giữ được lối kiến trúc thuở ban đầu. Đền làm kiểu chữ nhất 5 gian kiến trúc đơn sơ mà vững chãi, dựng trên một khoảng đất cao, giữa cánh đồng rộng, sau đền có cây đa cổ thụ, cành lá xum xuê trùm gần kín đền, tạo nên nét thâm nghiêm phù hợp với tư duy tín ngưỡng cổ truyền.
Giếng Phượng trong khuôn viên đền Mẫu
Điện thờ có hai khối, bên ngoài thờ Vua Hùng- Cao Minh và tướng lĩnh, với các cỗ ngai bài vị chạm lưỡng long chầu nguyệt, hoặc chạm các bắc mai điểu với kỹ thuật đục bong, thủng rất công phu, rồi sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Bên trong, trên cao có thang gác gỗ đi lên là cỗ khám thờ mẫu Âu Cơ. Khám cao 1m82, dài 1m63 rộng 1m25. Riềm khám thờ được chạm văn hoa tứ quý (Tùng, Cúc, Trúc, Mai. Trong khám đặt cỗ ngai làm nơi ngự của tượng bà Âu Cơ - tượng cao ước gần một mét, ở tư thế ngồi. Mẫu Âu Cơ mặc áo đỏ, yếm trắng đầu đội mũ, một tay cầm viên ngọc, tay kia đặt trên đầu gối, chân đi hài cong (vân sảo), đầu đội mũ lấp lánh (kim cương), nước da hồng, mặt đôn hậu (Tượng Mẫu Âu Cơ có niên đại khoảng 540 năm).
Dâng hương tri ân công đức của Tổ Mẫu Âu Cơ
Toàn bộ tượng toát lên một vẻ đẹp thanh cao, đôn hậu của phụ nữ Việt Nam. Ngoài tượng Mẫu là cổ vật linh thiêng, ngôi đền còn lưu giữ được những bức trạm gỗ quý giá, tượng Đức Ông, Long Ngai, Khám thờ mà các nhà khoa học nhận định đó là những tiêu bản của nền nghệ thuật đương thời. Trên phật diện vẫn bộ “ Tam thế Thường Trụ Diệu Pháp Thân” tượng trưng cho 3000 phật của mọi thời, cho lòng nhân ái vị tha, cho pháp lục và trí tuệ vô lượng vô biên để diệt trừ mọi sự u tối mầm mống của tội ác. Tiếp dưới là A di đà phật, Thích Ca, các vị Bồ Tát, Đức Ông... Mỗi vị một chức năng nằm cứu độ cho đời. Kiến trúc đền mẫu Âu Cơ trên khu đất tụ linh, tụ phúc mang đến cảm giác cho con cháu thập phương về hành lễ tri ân công đức Mẫu sự ấm áp chở che.
Đứng dưới bóng đa đại thụ, trong làn hương trầm bảng lảng như thực như hư, lặng ngắm sông Hồng đỏ nặng phù sa miệt mài đổ về xuôi như dải lụa đào mềm mại, duyên dáng, chúng tôi như được trở về nguồn cội, về với ngày xửa, ngày xưa khi Mẫu Mẹ dừng chân.
Nguyễn Thế Lượng

0 nhận xét:

Đăng nhận xét