Bùi Tín
Có Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 rồi mới có ngày 30 tháng 4 năm
1975. Hai ngày lịch sử ấy liên quan đến nhau rất chặt chẽ, tác động đến số phận
của cả dân tộc, đến số phận của mỗi một gia đình người Việt, đến số phận mỗi một
con người Việt Nam, cho đến tận hôm nay.
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, đại diện đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa
và Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Hoa Kỳ Henry Kissinger chúc mừng nhau sau
lễ ký tắt.
(Người đứng giữa, phía sau là Thư ký đoàn VNDHCH Lưu Văn
Lợi)
Nghĩ lại để mà xót xa, luyến tiếc, để tủi hận và thức tỉnh, làm
bài học cho mỗi người Việt mình.
Nhớ lại những ngày đầu năm 1973. Sau đợt ném bom Hà Nội những ngày
Giáng Sinh tháng 12 năm 1972. Hội nghị Paris họp lại. Hai bên ngả ngũ rất nhanh.
Không khí Hà Nội hân hoan, mọi việc khẩn trương, ngừng bắn, hòa bình đến nơi
rồi. Trong tầm tay. Phía Mỹ mệt mỏi ra mặt, chỉ muốn quên 2 chữ Việt Nam cho sớm
nhất. Phía ‘’ta’’ lúc ấy cũng mệt mỏi, Bắc Kinh hòa hoãn với Mỹ, thậm chí chìa
tay bè bạn để cô lập Liên Xô.
Ngày 23 tháng 1 tôi được chỉ định sẽ tham gia Đoàn đại biểu quân
sự Chính phủ VN DCCH trong Ban Liên hợp Quân sự 4 bên, làm việc tại Sài Gòn
trong 60 ngày. Đoàn do thiếu tướng Lê Quang Hòa làm trưởng đoàn, ông Lưu Văn Lợi
vụ trưởng bộ ngoại giao làm phó đoàn, mang quân hàm đại tá, một phó đoàn là đại
tá Hoàng Hoa (tên thật là Hồ Quang Hóa). Tôi được giao nhiệm vụ làm Người phát
ngôn của đoàn, trong quan hệ với giới thông tin báo chí trong và ngoài
nước.
Ngay đêm đó tôi được đọc trước bản Hiệp Định đã được ký tắt, sẽ
được ký chính thức vào ngày 27/1 ở Paris. Ngay sau đó đoàn miền Bắc sẽ được máy
bay Mỹ ra đón vào Sài Gòn.
Những ngày bận rộn, hối hả. Tôi phải vào bộ tổng tham mưu, Cục tác
chiến, theo dõi kỹ tình hình chiến sự mới nhất từng khu vực trên hàng loạt bản
đồ. Tôi nghiên cứu hầu như thuộc lòng bản Hiệp định Paris gồm 4 chương và 14
điều. Chương I: Các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN. Chương II: Chấm dứt
chiến sự- Rút quân. Chương III: Trao trả tù binh . Chương IV : Thực hiện quyền
tự quyết của nhân dân miền Nam VN.
60 ngày sống ở Sài gòn thật sôi nổi, mới lạ, thú vị. Máy bay Hoa
Kỳ C-130 ra Hà Nội đón chúng tôi vào Sài Gòn, ở trong trại Davis - trại cũ của
bộ đội truyền tin Mỹ, nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất. Chúng tôi ra phòng họp của
Ban Liên Hợp Quân sự 4 bên hàng ngày.
Tôi có hàng chục lượt xuống trung tâm Sài Gòn gặp Ủy ban Quốc tế
(Ấn Ðộ, Canada, Inđonésia, Hungari, Balan), dự chiêu đãi, văn nghệ ở Câu lạc bộ
Huỳnh Hữu Bạc trong sân bay. Tôi cũng đi Biên Hòa, Cần Thơ, Bình Định, Lộc Ninh,
gặp các Tổ LHQS 4 bên tại đó, đặc biệt là dự cuộc rút toán quân nhân Hoa Kỳ cuối
cùng ngày 29/3/1973 tại sân bay, tôi trao tặng quân nhân Max Bielke bức tranh kỷ
niệm bằng tre vẽ tháp Rùa Hà Nội (sau này anh M. Bielke bị chết trong cuộc máy
bay bọn khủng bố tiến công Lầu Năm Góc tháng 9/2001 trong khi anh đang làm công
tác xã hội thiện nguyện tại đây). Trong 60 ngày ở Sài Gòn, tôi có 5 cuộc họp báo
quốc tế hằng tuần và 11 cuộc trả lời phỏng vấn riêng của báo chí miền Nam và
quốc tế.
Nhớ lại cả thời gian ấy, rồi trong cả 2 năm 1973 và 1974, chúng
tôi vẫn cho rằng việc thống nhất đất nước sẽ còn gay go và lâu dài, cho tận cuối
năm 1974 khi trận Bình Long đang diễn ra không một ai nghĩ rằng chiến tranh sẽ
ngả ngũ trong năm 1975, thậm chí trong năm 1976. Tôi nhớ cuối năm 1974 khi nhìn
vào tấm bản đồ lớn trong Sở chỉ huy, chỉ mới có 3 quận được ‘’giải phóng’’ là
Lộc Ninh, Đắc Tô và Cam Lộ, 3 điểm nhỏ xiú trên bản đồ mênh mông. Năm 1972 ý đồ
chiến lược là mở rộng một vùng giải phóng rộng ‘’vài ba tỉnh để đặt trụ sở Chính
phủ Cách Mạng Lâm thời miền Nam VN’’ vẫn còn trong mơ
tưởng.
Cũng trong 60 ngày ở Sài Gòn và đi gần khắp miền Nam, nhiều anh em
thân quen với tôi đều cho rằng cuộc đọ sức quân sự khó ngả ngũ trong thời gian
ngắn, vì đối phương còn sức mạnh trong thế và lực với ta. Chúng tôi thấy rõ
không quân VN Cộng hòa lớn mạnh. Bộ binh VNCH đông, thiện chiến, chỉ huy dày
dạn. Con đường chiến đấu còn dài, gian nan.
Trong quân đội nhân dân và trong đảng CS sau Hiệp định Paris đã có
lúc có luồng suy nghĩ rằng nên chăng chuyển sang hẳn cuộc đấu tranh chính trị.
Tôi nhớ đó cũng là ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với đoàn LHQS chúng tôi
trước khi lên đường. Câu ‘’thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình, qua thi
đua kinh tế giữa 2 miền là một khả năng" cũng được ghi trong nghị quyết trung
ương đầu năm 1973.
Tư tưởng muốn nghỉ ngơi ít lâu sau cuộc chiến đấu lâu dài gần 30
năm là dễ hiểu. Chính tướng Đinh Đức Thiện, em ruột ông Sáu Búa Lê Đức Thọ gặp
chúng tôi ở Câu lạc bộ quân nhân, nói bỗ bã rằng :’’ Hăng máu vịt, nhưng con cái
các ông lớn có ai vào chiến truờng đâu. Sinh Bắc tử Nam toàn là con cháu nông
dân thấp cổ bé họng ’’, tôi nhớ mãi câu ông nói thêm : ‘’ Mỹ nó rút hết càng là
lý do để ta hạ súng nói chuyện anh em với nhau, nếu không sẽ còn giết nhau bao
lâu nữa, bao nhiêu ngàn, vạn bao tải (đựng xác chết) đều là con em nông dân nhà
ta cả ‘’. Công bằng mà nói ông Thiện có quan điểm khác với Sáu Búa, ông từng
tham gia đoàn trung ương, cùng các ông Tố Hữu và Nguyễn Thọ Chân bộ trưởng Lao
động vào Nam phổ biến nghị quyết TW ngay sau khi ký Hiệp Định Paris, nói rõ ta
cũng thực hiện ngừng bắn, có thời gian nghỉ ngơi, củng cố hàng ngũ, chuyển sang
đấu tranh chính trị . Tố Hữu vui miệng gọi đây là thới kỳ ‘’ gò cương, vỗ béo
‘’, nhưng chỉ kéo dài được vài ba tháng. Tôi nhớ từ tháng 7 tháng 8 năm 1973
chiến sự lại rộ lên, nhất là ở quân khu IX.
Dầu sao lúc ấy với tôi, ý định chuyển sang đấu tranh chính trị
cũng rất hấp dẫn. Tôi thật sự chán ngán cuộc chiến. Tôi nhớ đến bà chị ruột tôi,
em gái út tôi đang ở cùng gia đình trong Sài Gòn, còn không ít anh họ tôi, em họ
tôi, cháu họ tôi, bè bạn tôi sống trong đó.
Nay đọc lại bản Hiệp Định Paris tôi vẫn còn đau xót, coi như chính
bản thân mình bị lừa, bị móc túi. Ngay trong Phần mở đầu đã có câu ‘’Các bên cam
kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN và quyền tự quyết của
nhân dân miền Nam VN’’, xin nhớ: ‘’quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt
Nam‘’, điều mà đảng CS lập tức phớt lờ một cách cố tình, tận tình, triệt
để.
Ở Điều 2 Chương 2, ghi rõ ‘’Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện
khắp miền Nam VN kể từ 24 giờ GMT 27/1/1973. Việc chấm dứt chiến sự nói trong
điều này ‘’là vững chắc, không thời hạn’’. Các lực lượng mỗi bên sẽ ở nguyên vị
trí, sẽ quy định vùng mỗi bên và thể thức trú quân, phải ngừng mọi hoạt động
tiến công nhau, và triệt để tuân theo quy định ngăn cấm mọi hành động vũ lực và
ngăn cấm mọi hành động đối địch, khủng bố, trả thù.
Có cả một chương IV nói về ‘’ Thực hiện quyền tự quyết của nhân
dân miền Nam VN‘’, ghi rõ‘’ Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ VNDCCH cam kết tôn
trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết thông qua tổng tuyển cử tự do
dân chủ, có giám sát quốc tế, các nước ngoài không được áp đặt ; Ngay sau khi
ngừng bắn 2 bên Nam VN sẽ thực hiện hòa giải hòa hợp, xóa bỏ hận thù, Hiệp
thương để thành lập Hội Đồng Hoà giải hòa hợp dân tộc, với 3 thành phần ngang
nhau.’’
Sau 60 ngày đầu tiên sau Hiệp Định Ban Liên Hợp QS 4 bên được thay
bằng Ban LHQS 2 bên ở miền Nam VN, nhưng thực tế là của 2 bên VNDCCH và Cộng Hòa
VN.
Có thể nói sang năm 1974 vụ án chính trị ở Hoa Kỳ Watergate đã có
tác dụng quyết định đến tình hình VN, với tổng thống Nixon rất kiên định bị mất
chức, một tổng thống không được dân bầu lên là G. Ford thay thế, với một quốc
hội chán chường, mệt mỏi, bẳn tính, đến độ keo kiệt, thắt chặt hầu bao đến độ vô
cảm nhẫn tâm. Xin nhớ trong 10 năm tham chiến từ 1963 – 1973 Hoa Kỳ bỏ ra hàng
670 tỷ đô la (theo thống kê của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ) vào cuộc chiến xa xôi, đến
năm 1973 còn chi 3,2 tỷ, năm 1974 cắt xuống còn 700 triệu, rồi thiến bớt chỉ còn
300 triệu kiểu nhỏ giọt, trong khi VNCH chỉ cần vài tỷ US$ để tồn tại và cầm cự,
nghĩa là chỉ yêu cầu không đầy 1% chi phí thời gian trước đó. Thật là cạn tàu,
ráo máng. Tham gia bức tử người bạn của mình.
Không phải chỉ là bỏ rơi một đồng minh, phản bội một tình bạn,
nuốt chửng lời cam kết danh dự, còn là tê bạc với vong linh hơn 60 ngàn quân
nhân bỏ mình trên chiến trường xa, phản bội ý nghĩa cao quý của sự hy sinh tham
chiến của hàng triệu lượt con em mình cho lý tưởng dân chủ, nền tảng tinh thần
vô giá của Hoa Kỳ.
Sau hơn 40 năm nhìn lại, các phía đều có phần chua chát đắng cay
của mình. Nhân dân Việt Nam nói chung bị chia rẽ, bị phản bội từ nhiều phía,
nhưng sâu cay nhất là từ đảng CS đã bội thực một chiến thắng bất xứng, không
tiêu hóa nổi một món quà ngẫu nhiên từ trời rơi xuống quá nhanh, bị nghẹn đến
tắc thở, trở thành một tầng lớp tư bản đỏ cực kỳ gian tham hung bạo, bị nhân dân
xa rời khinh bỉ, bị cả thế giới văn minh chỉ trích chê trách và nay đứng trước
nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào.
Bộ Trưởng Nguyễn Thị Bình ký hiệp
định
Với thời gian mọi người có dịp nhìn rõ hơn tâm địa CS khi họ cam
kết và hạ bút ký các văn kiện ngoại giao, đó là ký mà biết trước là sẽ không tôn
trọng chữ ký của mình, ngay từ khi chữ ký chưa ráo
mực.
Tuy trong Hiệp định không có điều khoản nào về QĐND miền Bắc rút
ra khỏi miền Nam, nhưng điều 13 nói rõ :’’Hai bên miền Nam VN sẽ giải quyết vấn
đề các lực lượng vũ trang của mình trên tinh thần hòa giải, hòa hợp, bình đẳng
và tương kính không có sự can thiệp ở bên ngoài. Hai bên miền Nam VN sẽ bàn việc
giảm quân và giải ngũ số quân ấy càng sớm càng tốt‘’. Ông Nguyễn Duy Trinh và bà
Nguyễn Thị Bình có bao nhiêu thành tâm đối với điều 13 này khi đặt bút ký trên
văn bản ngày 27/1/1973?
Năm nay nhắc lại việc ký kết năm xưa để ghi nhớ rằng thương lượng
với CS, ký kết với CS phải hết sức dè chừng, sự tráo trở, cạm bẫy của họ rất
nguy hiểm, tệ hại, hiển nhiên.
Cam kết để được vào làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp
Quốc, cam kết thay đổi luật lệ để được vào khối Xuyên Thái Bình Dương TPP, cam
kết cải cách thể chế kinh tế- chính trị để được nhận tiếp 2 vòi hỗ trợ và đầu tư
ODA và FDI có ý nghĩa sống còn, cam kết sẽ chống tham nhũng quyết …liệt, diệt
sâu từ nhỏ đến lớn, cam kết công khai hóa minh bạch hóa tài sản, thu nhập của
cán bộ cấp cao …
Để chứng minh tài ba thiện nghệ tuyệt đỉnh của lừa dối, phải nói
là của bịp bợm, xin trích ra một câu ít ai để ý trong bản Hiệp Định Paris, đó là
Trong Chương IV, Điều 9, mục a) ghi rõ: ‘’Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa coi quyền tự quyết của nhân dân Nam Việt Nam là thiêng liêng,
bất khả xâm phạm ‘’(…the South Vietnamese people‘s right to self determination
is sacred, inaleable).
Thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Vâng, họ từng cam kết trên giấy trắng mực đen như vậy đó.
Vâng, họ từng cam kết trên giấy trắng mực đen như vậy đó.
Bùi Tín
0 nhận xét:
Đăng nhận xét