Ngô Nhân Dụng
Ngày 30 Tháng Tư năm 2014, lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam đã can đảm
xuống đường, không phải để ca ngợi mà để chống chính quyền. Họ trưng những biểu
ngữ công khai nói lên những sự thật, sau 39 năm bị bịt miệng: 30-4 NGÀY TANG
DÂN TỘC! 30-4 DÂN VIỆT MẤT QUYỀN CON NGƯỜI!
Tại sao cuộc biểu tình này có thể thực hiện trong một ngày
“nhạy cảm” như vậy?
Vì kỹ thuật tổ chức của dân Việt ngày càng tinh vi, nhưng
cũng vì chính quyền không thể gán cho những người biểu tình tội “chống Cộng” trong
ngày 30 Tháng Tư, cho công an đàn áp ngay lập tức. Nhìn trong hình thấy những
bạn trẻ và các em bé chưa sinh ra trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Có cả những
bà già có con đi theo cộng sản và chết, cho các quan chức bây giờ được hưởng
giàu sang. Những người biểu tình đeo khăn tang trên đầu, trên đó viết chữ tự
giới thiệu họ là những “dân oan.” Dân Oan một danh từ thường chỉ chung những
người đã bị đảng
cộng sản cướp ruộng, cướp đất để khai thác chia phần cùng với
đám tư bản đỏ.
Nhưng tại sao dân biểu tình không bị đàn áp, có thể rất dã
man như những cụ già, phụ nữ, trẻ em, ở Dương Nội, Văn Giang chống cướp đất đã bị
đánh đập?
Vì chính quyền địa phương và guồng máy công an tại Dương
Nội, Văn Giang có quyền lợi thiết thực cho họ khi đảng cướp đất của nông dân. Trên
dưới tất cả đều được “chấm mút” trong những công trình rút ruột này. Còn guồng máy
công an và chính quyền tại Sài Gòn thường không được ăn miếng nào khi các đồng
chí lãnh đạo Bạc Liêu hay Cần Thơ cướp ruộng đất của nông dân. Có ngu gì mà họ
lại chấp nhận cảnh đứa khác ăn ốc để mình phải đi dọn vỏ?
Cũng trong ngày 30 Tháng Tư năm 2014, một Hội Dân Oan Việt Nam ra đời.
Trước đó ông Nguyễn Xuân Ngữ đại diện dân oan phía Nam đã gặp gỡ nhiều dân oan
các tỉnh phía Bắc, đồng ý chọn ngày 24 Tháng Tư làm Ngày Dân Oan Việt Nam.
Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt từ năm 1975. Ngay
sau đó cho tới bây giờ, một cuộc chiến mới diễn ra. Một bên là chính quyền độc
tài, tham nhũng, bất lực và thối nát. Bên kia là người dân đấu tranh đòi quyền
sống làm người, quyền được hưởng tự do dân chủ. Những sinh viên học sinh, những
nhà trí thức, và có những nông dân chân lấm tay bùn cùng tham gia mặt trận đấu
tranh.
Sau 39 năm, dân Việt vẫn phải đấu tranh đòi quyền sống làm
người, đòi được hưởng những quyền tự do tối thiểu như được nói, được suy nghĩ, được
hội họp tự do. Sau 39 năm, dân Việt Nam vẫn nghèo khó nhất trong vùng Á
Ðông. Trong những năm tới còn lo sẽ nghèo hơn cả người Campuchia, người Lào.
Sau 39 năm, mối họa phương Bắc cho thấy chính sách ngoại giao “cõng rắn cắn gà
nhà” từ năm 1950 đã gây họa trường kỳ cho dân tộc như thế nào. Cho nên những
người biểu tình năm nay đã nói đúng sự thật: 30 Tháng Tư năm 1975 là một Ngày
Tang của Dân Tộc. Cảnh nghèo nàn chậm tiến, mất tự do và lệ thuộc ngoại bang
hiện nay có thể đoán trước được từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi thi sĩ Nguyễn
Chí Thiện ngồi ở trong tù cũng nhìn thấy “Một mối nhục nhằn, một mối đau
thương” trùm lên đất nước.
Bài trước trong mục này kể lại những ngày kết thúc cuộc nội
chiến ở nước Mỹ vào Tháng Tư năm 1865; nhân ngày 30 Tháng Tư. Cả bài chỉ kể chuyện
về cung cách đối xử của những người chỉ huy miền Bắc nước Mỹ đối với người miền
Nam thua trận. Những gì xảy ra ở nước ta vào năm 1975 thì chắc quý vị độc giả
đã biết cả rồi. Khi đọc bài, chắc thế nào quý vị cũng nảy ra ý so sánh cảnh các
cuộc nội chiến kết thúc, ở Mỹ vào thế kỷ 19 và ở Việt Nam trong thế
kỷ 20.
Cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc, và gây nên nỗi hận thù.
Nhưng khi quân miền Bắc chiếm Richmond, Tổng
Thống Abraham Lincoln vào thủ đô của chính phủ miền Nam. Richmond lúc đó đã vô cùng hỗn loạn vì các
cuộc cướp phá, đốt nhà, hôi của. Khi Tướng Weitsel hỏi ý kiến nên đối xử với người
miền Nam thế nào, Lincoln bảo: “Hãy cho họ
dễ dàng - Let 'em up easy!” Ông bị nhiều người phản đối, kể cả phó tổng thống
của ông, và vị bộ trưởng chiến tranh. Vì vậy, khi nghe tin ông bị ám sát, người
miền Nam
lo lắng cho số phận của họ. Vị tướng miền Nam Joseph Johnson đã nói với Tướng
William Sherman miền Bắc, khi hai người gặp nhau thảo luận về điều kiện đầu
hàng: “Ðây là tai họa lớn nhất cho miền Nam!” Nhưng sau cùng, tai họa cũng
không xảy ra. Khi còn đang đánh nhau, Tướng Sherman từng nói với dân và quân
miền Nam
rằng: “Khi nào hết chiến tranh, các bạn cần gì cứ tìm đến tôi! Nếu tôi có mấy
cái bánh cracker, sẽ chia sẻ với bạn; tôi sẽ bảo vệ gia đình các bạn.” Hai ông
tướng bàn bạc mất mấy ngày mới đồng ý về điều kiện đầu hàng, cho quân sĩ miền Nam được tự do trở
về nhà, mang theo ngựa hoặc lừa, để cầy bừa vườn ruộng. Sau đó, Tướng Sherman
còn quyết định cung cấp cho tất cả 25,000 quân sĩ còn lại của Tướng Johnson mỗi
người mười ngày lương thực. Sherman biết kho lẫm
miền Nam
đã cạn kiệt, chắc ông muốn những địch quân của mình, trên đường trở về nhà
không ai phải đi xin ăn hay cướp bóc. Ðiều này không nằm trong các điều kiện
đầu hàng đã ký kết. Khi “Old Joe” Johnson nhận được “quà tặng bất ngờ” đó, ông
thẳng thắn ca ngợi: “Lòng yêu nước lớn lao” của vị tướng đối nghịch. Trước đây
ông vẫn nghĩ rằng phải đối đầu với Tướng Sherman trên chiến trường nỗi bất hạnh
của đời mình; nay hóa ra đó lại là điều may mắn cho cả đạo quân dưới quyền.
Nghĩ đến cảnh những người lính miền Nam nước Mỹ đem theo mười ngày lương thực trên
đường về nhà, lại nhớ đến cảnh ở Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Các sĩ quan và công chức miền Nam
từ giã gia đình, “đem theo lương thực đủ dùng trong mười ngày;” có người đem
theo đủ một một tháng, như ghi trong giấy mời trình diện. Họ ôm theo thức ăn,
và quần áo, xà bông, khăn mặt, kem đánh răng, tự mình đi vào tù, ai cũng nghĩ
rằng sẽ chỉ phải “học tập” một tháng là xong. Các lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội tự
vỗ bụng khen mình là “đỉnh cao trí tuệ” vì đã bày mưu đánh lừa được mấy trăm
ngàn người tự nguyện chui đầu vào cái thòng lọng họ đã giương ra, sẵn sàng siết
cổ. Bản thân ký giả này, nếu không may mắn thoát đi trước, chắc cũng đã tự
nguyện chui đầu vào cái thòng lọng đó.
Nhiều người sẽ tự hỏi: Có phải người Mỹ vào thế kỷ 19 họ
hiền lành, tử tế với nhau hơn người Việt Nam 110 năm sau hay không? Tôi
không nghĩ như vậy. Ðã đi qua nhiều nước và đọc truyện kể từ nhiều nơi, tôi vẫn
tin chắc rằng loài người ở đâu cũng như nhau, không ai tốt hơn mà cũng chẳng ai
xấu hơn ai.
Vậy thì tại sao chính quyền miền Bắc nước Mỹ, các tướng lãnh
và quân đội của họ lại đối đãi tử tế với những đạo quân miền Nam và dân chúng miền Nam thua trận như vậy? Vì vào năm
1965, chế độ dân chủ ở nước Mỹ đã được thực hiện hơn nửa thế kỷ. Một nguyên
nhân chính gây nên cuộc nội chiến là các tiểu bang miền Nam không công
nhận người da đen có quyền công dân như người da trắng, trong khi miền Bắc đã
làm luật giải phóng nô lệ. Nhưng trong thời gian nội chiến 4 năm, chính quyền
cả hai miền đều dùng các Hiến Pháp bảo đảm các công dân được bầu cử tự do, báo
chí tự do, hội họp tự do, bộ máy nhà nước phải tôn trọng hiến pháp, luật pháp
và các công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật. Với thể chế tự do, những
người lãnh đạo phải theo ý dân. Mà dân chúng nước nào thì cũng sẵn sàng bao
dung, đùm bọc đồng bào của mình.
Vào năm 1975, chế độ miền Nam Việt Nam được đặt
trên nền tảng dân chủ, mặc dù chưa vì trong cảnh chiến tranh không được đầy đủ
như nhiều người dân mong muốn. Tại miền Bắc thì chế độ cộng sản hoàn toàn bác
bỏ các quy tắc dân chủ, coi đó là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Nhưng nguyên
nhân chính khiến cho chế độ miền Bắc thắng trận đối xử với quân và dân miền Nam một cách
khắc nghiệt tàn tệ, là vì họ theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin.
Theo Mác-Lê Nin là theo một “tín ngưỡng,” mặc dầu vẫn là vô
thần. Những người cộng sản tin những điều Mác-Lê Nin nói đều là “chân lý” tuyệt
đối, không khác gì tín đồ các tôn giáo thời Trung Cổ. Tinh thần cuồng tín đó
được nhồi sọ cho các đảng viên cộng sản, bảo họ chia thế giới ra làm hai phần;
những người theo mình là bạn, còn tất cả những người khác ý kiến là kẻ thù. Và
đối với kẻ thù, họ không cần áp dụng các quy tắc luân lý cũng như luật pháp nào
cả. Cho nên họ tha hồ dùng thủ đoạn lừa gạt, dối trá, tha hồ dùng bạo lực, cho
đến việc thu hộ khẩu, cắt tem phiếu, và bây giờ là thu hồi quyền sử dụng đất,
để bắt mọi người phải phục vụ cho mình.
Các đảng viên cộng sản được đào tạo như vậy từ khi xin vào
đảng, từ 1920, 30 cho tới năm 1975 vẫn như vậy. Trong thế giới cộng sản tình
cảm giữa người với người bị xóa bỏ, thay vào đó là lòng trung thành tuyệt đối
với Ðảng (viết hoa), tức là sẵn sàng tuân lệnh cấp trên. Những người như Lê
Duẩn, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ đã được đào tạo như vậy.
Ðược “giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lê Nin” cho nên các lãnh tụ
cộng sản vào năm 1975 trong lòng coi tất cả dân, quân miền Nam không phải là
người, không phải là “đồng bào;” mà chỉ là những kẻ thù của cuộc cách mạng vô sản
toàn thế giới.
Người Việt Nam
bình thường không đối xử với nhau tàn tệ như bọn lãnh tụ cộng sản vào năm 1975.
Nếu được bỏ phiếu lựa chọn, chắc chắn dân chúng miền Bắc không ai nỡ bắt dân
chúng miền Nam
phải qua cảnh tập thể hóa, đánh tư sản, tù cải tạo. Vì chính họ đã bị đem ra
làm thí nghiệm cho chủ nghĩa cộng sản mấy chục năm rồi! Chính chủ nghĩa cộng
sản đã biến dân Việt Nam
thành kẻ thù đối với nhau, chia rẽ cả dân tộc khắp mọi nơi chứ không chỉ chia
hai miền Nam Bắc.
Một độc giả mới gửi thư hỏi, “Tại sao nội chiến Mỹ người ta
nhanh bỏ qua, còn ở Việt Nam
thì sau 39 năm rồi vẫn còn còn nhiều việc phải làm?”
Câu trả lời là: Vì suốt 39 năm qua, dân Việt Nam vẫn phải
tiếp tục sống dưới quyền cai trị của một đảng cộng sản.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét