Trần Vinh Dự
Những
ngày gần đây, câu chuyện Luật Biểu Tình lại trở lại trang nhất của báo
chí trong nước. Lý do là hồi cuối tháng 5 vừa rồi, Quốc Hội Việt Nam đã
thông qua một nghị quyết về chương trình xây dựng luật và pháp lệnh năm
2015. Theo đó, dự thảo Luật Biểu Tình (do Bộ Công An chủ trì xây dựng)
sẽ được trình Quốc Hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 9 và sẽ thông qua tại
kỳ họp thứ 10 (cuối năm 2015).
Còn nhớ hồi 3 năm trước (năm 2011), việc soạn thảo và thông qua Luật
Biểu Tình từng được nêu ra tại Quốc Hội. Chính Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
ngày đó đã lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ việc soạn thảo dự luật này.
Thế nhưng sau 3 năm, hầu như không có ai nói đến chuyện này nữa. Ðề
xuất của chính phủ hồi năm 2011 bị lãng quên. Chỉ còn lại câu nói bất hủ
của một đại biểu Quốc Hội tên là Hoàng Hữu Phước (đại biểu của Sài Gòn)
hồi đó rằng “cần phải loại bỏ Luật Lập Hội và Luật Biểu Tình khỏi
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, vì đa số công dân sẽ không ủng hộ
dự luật này.”
VNExpress trích lời ông Phước hồi năm 2011 cho rằng “cuộc biểu tình
tháng 8 vừa qua tại London lan ra nhiều thành phố khác đã biến thành bạo
loạn, cướp bóc, đốt nhà, làm ô danh đất nước. Rồi cuộc biểu tình chiếm
phố Wall tại New York và nhiều thành phố lớn của Mỹ cũng gây ra tình
trạng bẩn thỉu, ẩu đả, trộm cắp, và hiếp dâm.”
Không biết quan điểm của ông Phước có phải là quan điểm chính thống
hay không, nhưng rõ ràng ý kiến về việc phải có Luật Biểu Tình, trong đó
có cả ý kiến của Thủ Tướng Dũng, bị rơi vào quên lãng.
Vậy tại sao đến giờ ý kiến này lại xuất hiện, và lần này Quốc Hội có
vẻ quyết tâm hơn? Ít ra cũng không có những ý kiến như của Nghị Phước
hồi năm 2011?
Cho tới nay, quyền được biểu tình của người Việt chỉ được quy định
một cách mù mờ trong Hiến Pháp. Ðiều 69 của Hiến Pháp chỉ quy định công
dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Hiện nay vẫn chưa có luật quy định thế nào là “theo quy định của pháp
luật” mà chỉ có Nghị Ðịnh 38 của chính phủ (ban hành từ năm 2005) về các
biện pháp bảo đảm trật tự công cộng (không nói cụ thể về biểu tình).
Ðiều 3 của nghị định này nói về các hành vi bị nghiêm cấm. Trong các
hành vi bị nghiêm cấm này có việc tụ tập đông người nơi công cộng không
xin phép và được chấp thuận của Ủy Ban Nhân Dân cấp có thẩm quyền. Nghị
định này chỉ nói là người hoặc tổ chức đứng ra tổ chức biểu tình phải
nộp đơn xin phép đến UBND cấp có thẩm quyền, nhưng không nói rõ là cấp
nào (phường/xã, hay quận/huyện, hay tỉnh/thành phố). Nghị định cũng chỉ
nói UBND cấp có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét trong vòng 7 ngày từ
ngày nhận đơn, nhưng không nói UBND cấp có thẩm quyền này bắt buộc phải
đồng ý cho phép tổ chức biểu tình nếu đơn xin phép là hợp pháp hay
không.
Vì sự mù mờ này, không có ai đi xin biểu tình ở Việt Nam theo Nghị
Ðịnh 38. Các tổ chức của nhà nước và hệ thống chính trị của Việt Nam thì
nghiễm nhiên không chịu quy định bởi nghị định này, vì thế dù họ có
đứng ra tổ chức các cuộc biểu tình thì cũng không tính. Do đó, nói một
cách sòng phẳng, Nghị Ðịnh 38 không giúp gì cho người dân thực hiện
quyền biểu tình, trái lại nó còn tạo ra một con ngáo ộp khiến họ khiếp
sợ, vì từ khi có nghị định này, tất cả các hành vi tụ tập đông người nơi
công cộng không xin phép đều bị nghiêm cấm.
Nhưng tại sao mùa Hè năm 2011, và giờ là mùa Hè năm 2014, câu chuyện
phải có Luật Biểu Tình lại liên tục được đưa ra? Có vẻ như những nhà làm
luật của Việt Nam (không phải tất cả) đang dần dần nhìn thấy một số lợi
ích nhất định của biểu tình (có kiểm soát). Ít nhất, có Luật Biểu Tình,
và sau đó, thi thoảng cho phép một số cuộc biểu tình nhỏ, sẽ góp phần
tạo cảm giác Việt Nam là một đất nước văn minh hơn, và dân chủ hơn. Ðiều
này tốt về mặt PR ra thế giới.
Nhưng quan trọng hơn, mùa Hè năm 2011 là thời điểm Trung Quốc lấn tới
với việc chủ động quấy phá và cắt cáp tầu thăm dò dầu khí Bình Minh của
Việt Nam. Sự kiện này đã tạo ra bất bình trong dư luận và nhiều người
muốn đi biểu tình phản đối Trung Quốc. Năm 2014 này lại xảy ra sự kiện
Trung Quốc lấn tới thêm một bước dài nữa thông qua việc kéo giàn khoan
HD-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam để khoan thăm
dò dầu khí. Sự kiện này một lần nữa lại tạo ra bất bình trong dư luận và
nhiều người lại muốn đi biểu tình.
Trong những thời điểm như vậy, ngăn cản công chúng Việt Nam đi biểu
tình là một việc làm không hay ho gì. Nó dễ dẫn tới chuyện người dân
thay vì oán hận ngoại bang xâm lược thì lại quay sang oán hận chính
quyền trong nước. Vì thế, cho họ biểu tình một cách có kiểm soát thì lại
được tiếng là đứng về phía nhân dân. Quan trọng hơn, các cuộc biểu tình
như vậy có sức hấp dẫn với truyền thông thế giới, và vì thế góp phần
quan trọng vào việc đưa tin về sự phản kháng của người Việt đối với
chính sách bành trướng của nước láng giềng.
Thế nhưng nếu một luật như Luật Biểu Tình được viết ra chỉ để nhằm
tạo điều kiện quản lý một số cuộc biểu tình như các cuộc biểu tình chống
Trung Quốc thì có vẻ như nó không xứng đáng lắm với tư cách là một luật
được kỳ vọng mang lại thêm chút quyền tự do cho người dân Việt Nam.
Ðể xứng đáng, nó phải vượt xa Nghị Ðịnh 38 về mọi mặt. Nó phải thực
sự trao quyền vào tay người dân, mặc dù việc trao quyền này chắc chắn có
giới hạn, thí dụ việc biểu tình ủng hộ đa đảng chắc chắn luôn bị cấm.
Việc trao quyền này phải dưới hình thức liệt kê rõ những cuộc biểu tình
hướng vào mục tiêu gì, tại những thời điểm nào, thì chắc chắn phải được
chấp thuận và cơ quan quản lý không có quyền từ chối. Trong những phạm
vi cho phép này, việc của cơ quan quản lý là bảo đảm an ninh cho những
người biểu tình và những người dân khác, chứ không phải xuất hiện với tư
cách là lực lượng trấn áp, đe dọa, hay phục vụ công tác điều tra, lập
hồ sơ những người tham gia.
Những chuyện này có trở thành hiện thực hay không thì chỉ có những
người rất lạc quan may ra mới dám hy vọng. Lộ trình mà Quốc Hội đặt ra
cho việc xem xét và thông qua luật này là cuối năm 2015, trùng khớp với
thời điểm nước sôi lửa bỏng về chính trị ở Việt Nam khi việc chuẩn bị
nhân sự cho Ðại Hội Ðảng CSVN khóa tiếp theo đi đến hồi nước rút. Vì
thế, khả năng một lần nữa nó lại bị chìm vào quên lãng giống như lần
trước không phải là không có.
Trần Vinh Dự
0 nhận xét:
Đăng nhận xét