Năm 2010, hai tác giả
Pháp Philippe Papin và Laurent Passicousset có viết một cuốn sách (1) có tựa
đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là
"Sống với người Việt"). Phải
công nhận là sau khi đọc
qua những trang (dịch),
tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại
này không chỉ có hiệu
quả biết người ngoài nghĩ gì về
người Việt, mà nó còn giúp chúng
chúng ta hiểu về chúng ta hơn.
Tác giả dành ra một
chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục,
cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất... nhức
nhối.
Ở Việt Nam, trong những
câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường
thường dẫn về
chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức
và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học
hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm
chí còn có khác biệt giữa miền
Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền
Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền
Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện
[nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ
chẳng có chứng
cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ
trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện
thật.
Trong trích đoạn
dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicousset
viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mun luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là 15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết
một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả
này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội
có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức
quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp.
Dĩ nhiên, không phải
ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một
xã hội mà ngay cả
cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối
và biến thành một thương trường thì những
người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết
cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."
____________________
Một số chương của cuốn sách được dịch sang tiếng
Việt và đăng nhiều
kì trên trang Ba Sàm: https://anhbasam.wordpress.com/…/340-s%E1%BB%91ng-v%E1%BB%…/
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm
trọng : phân quyền
và mua quan bán chức
Hơn nữa,
tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc
tuyển chọn
công chức : phải chi một khoản
lớn mới
có được một
chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một
số vị
trí là hoàn toàn do mua bán. Điều
này không phải bí mật Nhà nước : ở
Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng
này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những
bức biếm
hoạ xuất
sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những
hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa
đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc
ghế ở
tít trên cao một cầu
thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.
Thông lệ
này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải
mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức
trách ban ra, tha hồ kể chi tiết
các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc
giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn
sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống
dưới. Các nhà chức
trách không thể không hành động.
Hồi mùa thu 2010, một
đại biểu quốc hội đã đặt
câu hỏi về vấn đề
này (nếu không được cho phép thì ông đã
không thể liều mạng như vậy). Ngay trước
hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng
ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất
mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày
sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ
trích căn bệnh mua quan bán chức
đang “di căn”. Chính quyền chính thức
công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy
nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước
khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Việc mua quan bán chức này không hẳn là mới.
Nó tồn tại từ giữa thập niên 1990. Người ta biết chuyện ông bộ trưởng nọ vừa mới được bổ nhiệm đã phải
đợi 6 tháng để
có đủ tiền trả cho cái ghế của mình trước khi được
ngồi vào đó. Gần
đây hơn, năm 2007, một
nữ chủ doanh nghiệp một thành phố lớn phía Bắc đã đề
xuất chi 80 ngàn EUR để được một chân đại
biểu quốc hội : ít quá, nếu so với
những đề xuất khác, nên bà này đã bị loại từ vòng sơ tuyển do Mặt
trận tổ quốc tổ chức, mà lọt qua vòng này thì coi như được bầu. Trái lại,
năm 2009, cũng khoản tiền ấy đã đủ để mua chức
phó giám đốc một doanh nghiệp lớn của Nhà nước mà chúng tôi tránh không nói tên. Năm 2010, nghe nói ngay cả Ban chấp hành trung ương
Đảng cũng không thoát khỏi
hiện tượng này…
Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức
trở thành tiến
sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế
là 12 000 EUR: 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến
sĩ tương lai (nếu
cần thì dịch
từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức
nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp
đến mức nào: 8.000 EUR là ba
năm dạy học của một giáo sư
Việt Nam đổi
lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…
Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến
cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu
điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một
lái xe đều phải trả những khoản
tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng
lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu
là vị trí có thể được cử sang các sứ
quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều.
Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến
800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh
lỵ giá trung bình 3 000 EUR.
Chúng ta cùng lấy
một thí dụ cụ thể: cô gái tên Phương
chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm
nay (2010), Phương 23 tuổi,
tốt nghiệp
marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được
việc làm trong cơ
quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều
phúc lợi xã hội,
được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ
làm thoải mái hơn,
và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng
mộ: “có nhiều
cơ hội kiếm
tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc
doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều
này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.
Khi cô kể
chuyện gia đình cô bàn bạc
quyết định chuyện mua chỗ làm như
thế nào (vì bố mẹ cô mới là người
trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu
quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu
bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền
không?
Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết
chính xác số tiền trong phong bì được
chia chác như thế nào, dù đương
nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường
dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất
cao. Trái lại, chúng tôi biết
đích xác một phó giám đốc
chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở
Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc,
nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm
cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ
có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu
không thì mất hết. Nên thể
nào cô cũng ngoan với các sếp,
rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…
Dù sao, trong khu vực
công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường
là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi
vào vòng xoáy tham nhũng cho được? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm
lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều
trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao
tránh khỏi cám dỗ
kiếm tiền bù lại
số mình đã bỏ
ra bằng cách tuyển
cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm
lại tiền một cách nhanh nhất? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền
ra khắp nơi, đến
tất cả mọi người: vòng tròn đã khép kín.
Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền; sau đó thành nếp
rồi thì chuyển
sang giai đoạn kiếm lời. Về
chủ đề này, chúng tôi cảm
thấy có một
sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ,
trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ: “Suy cho cùng
thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết
của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền
bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần
với giai đoạn
sau khi ta sẽ thu lời.”
Việc hoàn vốn
trở thành bước
đệm để đến
với nạn hối lộ trên diện
rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm
trong hoàn cảnh này. Một
tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức
cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ
làm ở thành phố ;
họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại
căn hộ gia đình đã đầu
tư cho.
Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức
bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày: thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những
nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển
và hợp tác quốc
tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh
tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc,
hiểu rằng mình cần vượt qua bằng
được thách thức
này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở
chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch
ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết
thúc xì-căng-đan biển thủ tiền
lương đã kéo dài suốt
bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế
thu nhập đang được
triển khai, có thể
thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều
có dán tờ tuyên truyền
động viên các gia đình khai thuế.
Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại
cho nền kinh tế chính thống
một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.
Nguyễn Văn Tuấn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét