Ông Bob Kerrey |
Mấy ngày vừa qua, ở trong nước, trên báo chí chính thống cũng như
trên các diễn đàn mạng, người ta bàn tán sôi nổi về việc ông Bob Kerrey
được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học quốc tế
Fulbright Việt Nam mới được chính thức cấp giấy phép thành lập tại Sài
Gòn.
Trường đại học Fulbright Việt Nam là trường đại học tự trị, phi lợi
nhuận và theo mô bình giáo dục của Mỹ đầu tiên được thành lập tại Việt
Nam.
Trong buổi nói chuyện tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia vào ngày 24
tháng 5 vừa qua, Tổng thống Barack Obama đã xem sự xuất hiện của trường
ấy như một dấu son trong tiến trình hoà giải và hợp tác giữa Việt Nam và
Mỹ. Nhiều trí thức Việt Nam chào đón sự ra đời của trường học ấy như
một bước ngoặt trong nỗ lực hiện đại hoá ngành giáo dục đại học tại Việt
Nam. Người ta hy vọng, với nó, một tầng lớp trí thức mới sẽ được đào
tạo một cách bài bản để có thể giúp việc xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, mừng thì mừng, nhiều người vẫn áy náy, thậm chí, giận dữ
về việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị.
Sinh năm 1943, ông Bob Kerrey là một chính khách khá lớn của Mỹ. Ông
từng là Thống đốc tiểu bang Nebraska (1983-1987), Thượng nghị sĩ
(1989-2001) và là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1992. Lúc còn
trẻ, đi lính, ông được điều sang Việt Nam. Vào đầu năm 1969, đơn vị của
ông gây ra một vụ thảm sát đầy tai tiếng tại làng Thạnh Phong, Bến Tre, ở
đó, có 24 người, bao gồm 14 phụ nữ, trẻ em và người già, bị giết chết.
Theo lời ông Kerrey, mặc dù ông không trực tiếp giết một ai, nhưng cuộc
thảm sát do đơn vị của ông gây ra, cũng để lại trong lòng ông một vết
thương và một mặc cảm tội lỗi không nguôi day dứt. Ông luôn luôn tìm mọi
cách để chuộc lại lỗi lầm ấy. Trong nhiều vai trò khác nhau trong bộ
máy chính trị của Mỹ, ông luôn luôn tìm cách thúc đẩy tiến trình hoà
giải giữa hai dân tộc, luôn luôn tìm cách giúp đỡ Việt Nam, đặc biệt về
phương diện giáo dục, trong đó có việc thành lập trường đại học quốc tế
Fulbright Việt Nam.
Sự hối cải và nhiệt tình của Bob Kerrey vẫn không đủ làm cho một số
người Việt Nam hài lòng. Họ vẫn nhớ đến bàn tay vấy máu của ông. Họ vẫn
cho việc ông làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị đại học Fulbright Việt Nam
là một tín hiệu không tốt: Nó gợi nhớ đến chiến tranh và những tội ác
của chiến tranh cũng như nó chạm vào vết thương chưa lành hẳn của nhiều
người.
Một số người khác cho cách nhìn ấy, tuy chính xác, nhưng nặng về cảm
tính. Họ cho trong thời điểm hiện nay, điều Việt Nam cần làm là quên đi
những vết thương của chiến tranh, cùng nhìn về tương lai để cùng nhau
cộng tác xây dựng đất nước cũng như thúc đẩy tiến trình hội nhập của
Việt Nam vào sân chơi lớn của thế giới.
Tôi đồng ý với quan niệm sau, của những người muốn quên thù hận.
Nhưng tôi cũng đồng cảm với những người vẫn còn loay hoay với quá khứ.
Tuy nhiên, trong bài này, tôi không muốn tham gia vào cuộc tranh luận
ấy. Tôi muốn nhân cơ hội này bàn mốt chút về ý nghĩa của ký ức, đặc biệt
về ký ức chiến tranh.
Để nhận diện đặc điểm nổi bật nhất của loài người, trước, thời Phục
Hưng và Khai Sáng, người ta chú ý đến lý trí (kiểu “tôi tư duy vậy tôi
hiện hữu” của Descartes hay “con người là cây sậy biết tư duy” của
Pascal); đầu thế kỷ 20, với Phân tâm học, người ta chú ý đến tiềm thức
và vô thức; từ vài thập niên trở lại đây, người ta chú ý đến vai trò của
ký ức với câu nói nổi tiếng: “Chúng ta là những gì chúng ta nhớ”.
Chính ký ức tạo nên ý niệm về bản sắc của cá nhân cũng như của tập
thể: Những gì chúng ta nhớ mang lại ý nghĩa cho những gì chúng ta làm,
chúng ta thấy, chúng ta nghe, từ đó, góp phần trả lời câu hỏi ta là ai.
Ký ức cũng nối liền từng người lại với nhau, tạo thành một cộng đồng,
hay rộng hơn, một quốc gia: Đó là một tập thể những người chia sẻ với
nhau một số những ký ức chung về nguồn cội cũng như về lịch sử, kể cả
lịch sử đương đại.
Liên quan đến chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến đã kết thúc hơn 41
năm, ký ức vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều người, thuộc nhiều thế hệ và
thuộc nhiều chỗ đứng khác nhau. Những người lưu vong, hiện sống ở hải
ngoại, xa lắc Việt Nam, vẫn không nguôi trăn trở với những ký ức về
chiến tranh, đặc biệt về trận Mậu Thân cũng như tháng 4, 1975 và những
tháng ngày sau đó, với các trại cải tạo và những cuộc vượt biển đầy nguy
hiểm. Những người ở miền Bắc vẫn không quên những chuyến vượt Trường
Sơn và những trận mưa bom dữ dội của Mỹ ngay tại Hà Nội. Mọi người vẫn
nhớ và những cái nhớ ấy vẫn tiếp tục chi phối cách suy nghĩ cũng như
cách hành xử của họ.
Với những người ngoại quốc từng tham gia vào chiến tranh Việt Nam, ký ức ấy vẫn còn nóng hổi.
Tại trường Đại học Victoria, trong ngành Việt học, ngoài các lớp về
ngôn ngữ, văn chương và văn hoá Việt Nam, tôi còn có một lớp về chiến
tranh Việt Nam, tập trung chủ yếu vào khía cạnh văn hoá và ký ức chiến
tranh (Many Vietnams: War Culture and Memory). Thường, mỗi năm, tôi mời
một cựu chiến binh của Úc đến trình bày kỷ niệm và kinh nghiệm của họ.
Nhớ nhất là cuộc nói chuyện của nhà văn Barry Heard. Ông vừa nói vừa
khóc. Sinh viên của tôi vừa nghe vừa khóc. Cuối buổi học, mắt ai nấy đều
đỏ hoe.
Barry Heard kể ông vào lính lúc mới vừa học xong trung học. Sau mấy
tháng huấn luyện quân sự, ông được đưa đến Việt Nam. Sau mấy ngày nghỉ
ngơi tại Vũng Tàu, đơn vị của ông được máy bay thả xuống một khu rừng
rậm với một chỉ thị: Bắn bất cứ người nào họ gặp. Không bao lâu sau, họ
gặp người thật. Họ được lệnh khai hoả. Khi tiếng súng ngưng, họ chạy đến
xem. Thấy đó là một đoàn bộ đội, có cả phụ nữ. Lần đầu tiên nhìn người
chết, nhất là những người đó chết vì những viên đạn do mình bắn ra, cả
đơn vị, gồm những thanh niên vừa mới lớn, oà lên khóc nức nở. Có người
còn ói mửa liên tục. Nhưng rồi, họ cũng tiếp tục đi hành quân và tiếp
tục bắn giết.
Khi trở lại Úc, Heard cứ bị ám ảnh mãi bởi những hình ảnh những xác
chết trong rừng rậm ấy. Ông bị khủng hoảng tâm thần đến độ nhiều lần
phải vào nhà thương điên. Sau, các bác sĩ khuyên ông hãy viết tất cả
những gì ông từng trải nghiệm trong chiến tranh Việt Nam lên trang giấy.
Nghe lời, ông viết cả mấy cuốn hồi ký. Tất cả đều bán chạy và từ đó,
ông trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất về đề tài chiến
tranh Việt Nam tại Úc.
Cuối buổi học, tôi hỏi ông bây giờ đã thấy thanh thản hẳn chưa. Ông
đáp: Chưa. Ông vẫn bị ám ảnh về những xác chết trong rừng rậm. Thỉnh
thoảng ông vẫn bị những cơn trầm cảm. Ông vẫn phải uống thuốc an thần.
Ông lấy một phần tiền từ nhuận bút các cuốn sách ông viết để thành lập
một quỹ học bổng giúp các học sinh và sinh viên Việt Nam nhưng ông vẫn
không dám về Việt Nam. Tôi hỏi tại sao. Ông đáp: Vì sợ. Ông sợ sẽ không
chịu đựng nổi khi nhìn lại khung cảnh Việt Nam. Vừa nói ông vừa ứa nước
mắt.
Tôi cũng có một người bạn vốn là hoạ sĩ tại Úc. Anh cũng từng tham
chiến tại Việt Nam. Anh kể một lần đụng trận; anh nhắm mắt xả súng về
phía trước. Khi trận chiến chấm dứt, anh thấy trước mắt mình xác một
thanh niên còn trẻ măng. Trên cổ người thanh niên ấy có một sợi dây
chuyền với hình Quan Thế Âm. Anh vừa khóc vừa gỡ sợi dây chuyền ấy. Bây
giờ, gần nửa thế kỷ sau, anh vẫn còn đeo sợi dây chuyền ấy trên cổ. Một
lần, kể lại câu chuyện ấy với chúng tôi, anh vẫn khóc. Những ký ức về
cuộc chiến tranh xa xôi về cả không gian lẫn thời gian ấy vẫn còn sống
mãi và vẫn còn khiến anh đau đớn.
Tôi nghĩ Bob Kerrey cũng là một người như thế. Cũng không thoát được
những ký ức về chiến tranh Việt Nam. Và cũng muốn làm một điều gì đó cho
Việt Nam.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét